Văn tưởng niệm các Tiên Hiền giáo thụ Đông Kinh Nghĩa Thục (1907 - 2007)

15:08 16/09/2008
VŨ NGỌC KHÁNHLTS: Ngày 17-11-2007, tại Văn miếu Quốc tử giám Hà Nội, Trung tâm Minh Triết Việt đã tổ chức Lễ tưởng niệm các nhà giáo Đông Kinh Nghĩa Thục. Giới trí thức học thuật của Hà Nội, nhiều thanh niên, sinh viên và hậu duệ của một số nhà Đông Kinh Nghĩa Thục (ĐKNT) đã đến dự.

GS Nguyễn Thế Anh (nguyên Viện trưởng Đại học Huế, nhân về dự hội nghị Nhà giáo Việt ) cũng đến dự lễ. Trên bàn thờ là phương danh các tiên hiền giáo thụ ĐKNT trong ba Ban giáo dục Tu thư và Cổ động của ĐKNT năm xưa.
Trong không khí thành kính và cảm động, G.S Vũ Ngọc Khánh đã xuống đọc bài Văn tưởng niệm do G.S phụng thảo. Sông Hương xin giới thiệu với quí độc giả.


Dân hăm lăm triệu, cõi nhân sinh biển Quế non Hoành,
Nước bốn ngàn năm, tuồng thiên diễn mưa Âu gió Á.
Nhớ các linh xưa:
Chí kinh luân, xuất xử am tường,
Tài học thức, thi thư sáng tỏ.
Thẹn cùng bè bạn nền văn minh phát triển khắp năm châu,
Căm nỗi nước nhà, thói hủ lậu dã man trong một xó.
Dân là thân trâu,
Vua là tượng gỗ.
 Ách khủng bố sớm trưa dồn dập, cảnh xóm làng cửa nát nhà tan,
Nạn trường hình năm tháng dày vò, thân chiến sĩ thịt rơi máu đổ.
Trời vô tâm oan nghiệt biết bao tầm
Dân bất hạnh tội tình là thế đó.
Ấy vậy mà: Nước đã đau thương,
                           Người còn ngu ngộ.
Phường mặt trắng đắm vòng hủ bại, câm hơi lặng tiếng,
chẳng biết thẹn thùng,
Tụi lằng xanh bu miếng đỉnh chung, bán nước buôn dân, kể gì xấu hổ.
Nào những kẻ thiên kinh vạn quyển, vẫn mù mờ nước tối người ngu,
Nào những ai trị quốc tề gia, khò mò mẫm đường hay lối dở.
Cách vật trí tri là câu đầu lưỡi, có biết chi ứng dụng thực hành.
Âm dương lý khí là chữ quen mồm, nào hiểu được tinh thần sách vở.
Chuyện thông thương, chuyện kinh tế đã rất hoang mang,
Chuyện cơ điện, chuyện hoá sinh lại càng lớ ngớ.
Cậy tài mọt sách, vênh váo cùng bài phú nhàn ngâm,
Khoe thói rung đùi, rông dài mãi câu văn bát cổ.
Nên người thức giả chúng ta:
Nhục nhã vô cùng,
Xót xa tột độ.
Ngọn bút tung nổi trận lôi đình
Tấc lưỡi uốn, dậy hồi trống mõ.
Phan Chu Trinh cùng quân quyền tuyên chiến một lời,
Lương Văn Can vì quốc sỉ, trối trăng sáu chữ.
Văn Đông Kinh khua động giấc mơ,
Thơ Huấn Quyền giục người tỉnh ngủ.
Nhật, Trung, Nga, Pháp, kinh nghiệm phô bày,
Tỷ, Cách, Khang, Lương, tân thư rộng mở.
Giọt tâm huyết chứa chan,
Lời can tràng gắn bó.
Khai dân trí, chấn dân khí, chiến lược công khai,
Tiến dân chủ, hậu dân sinh, phương châm sáng tỏ.
Lời hay, ý mới cho xã hội tiếp thu,
Tống cựu, cách tân cho quốc dân giác ngộ.
Tìm mẫu người hoạt động, có Ý Đại Lợi kiến quốc tam Kiệt nhân,
Noi gương bạn đổi đời, có Nhật Bản duy tân  khảng khái sử.
Lê Siêu Tùng dịch Hải ngoại huyết thư
Ngô Vi Lâm chuyển bài văn cáo hủ.
Một thiên Quốc dân độc bản, hiểu sâu tư cách cho xứng công dân.
Một tập Nam quốc địa dư, biết rõ quê hương, cũng là nghĩa vụ.
Cạnh Phạm Tư Trực có Nguyễn Hữu Cầu,
Gần Lương Trúc Đàm có Đào Nguyên Phổ.
Bài trần thuật cùng làm cùng nghĩ, thầy gợi lời, trò nối ý,
dân chủ giao lưu,
Sách giáo khoa tự soạn, tự in, dân góp vốn, bạn giúp tiền,
đường hoàng công bố.
Buổi diễn thuyết người đông như hội, hiếm thấy trên đời,
Kỳ bình văn khách tới như mưa, xưa nay chưa có,
Sôi sục tinh thần cải tạo, dẹp hư văn, cắt búi tó, ảnh hưởng lan tràn,
Nâng cao khí thế đấu tranh, binh phản chiến, dân chống sưu,
chiến công rầm rộ.
Thử mở hàng xưởng thợ hội buôn,
Thử thí nghiệm đóng tàu khai mỏ.
Thật rõ ràng:
Tuệ não tận tình tân học đắc,
 Đông kinh nghĩa thục là sáng kiến  tuyệt vời,
Phương châm tu tự nhiệt thành lai,
Đông kinh nghĩa thục là nhà trường tiến bộ.
Nào hay:
Kẻ địch kinh hoàng,
Giở trò tráo trở.
Đóng cửa trường, xiềng thầy giáo,
đảo Côn Lôn rừng rực lửa oan cừu,
Cấm sách vở, dọa học trò, thành Hà Nội nhôn nhao trò khủng bố.
Tương lai mờ mịt, và trời còn để giận trăm năm,
Sự nghiệp dở dang, thiếu đất đành căm hờn một thuở.
Giam thân hình, bay giam sao trí óc,
tình sâu ý hiếm càng bát ngát không gian,
Khoá tay chân, nào khoá được tự do,
 chén rượu câu thơ vẫn dạt dào vũ trụ.
Vững chí hy sinh.
Bền gan tiến thủ.
Cọp sổ lồng, cùng học trò về Yên Thế Thái Nguyên,
Chim tung cánh, theo bè bạn cuộc Tây du Đông độ.
Chói lọi bấy tấm gương ái quốc, xả sinh thủ nghĩa:
Văn minh đây, cách mạng cũng là đây.
Mới mẻ thay, sách lược tồn vong, tân hựu nhật tân:
Độc lập đó, tự do ngay ở đó.
Chúng tôi nay:
Gương sáng tiền nhân,
Tinh thành ngưỡng mộ.
Pha máu nóng thề cùng trời đất, sông Nhị núi Nùng còn mãi mãi,
 lũ cháu con xin tiếp bước tương lai.
Tụ hồn xưa Hoá Quốc Cường Dân, nòi Hồng giống Lạc
sáng muôn năm, các Tiên Hiền vẫn sống cùng đất nước.
Thượng hưởng.

(nguồn: TCSH số 227 - 01 - 2008)

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN ĐÌNH SỬTôi có duyên làm quen với Trần Hoàng Phố đã hai chục năm rồi, kể từ ngày vào dạy chuyên đề thi pháp học ở khoa Văn Đại học Sư phạm Huế đầu những năm 80. Hồi ấy anh đã là giảng viên nhưng theo dõi chuyên đề của tổi rất đều, tôi biết anh rất quan tâm cái mới. Sau đó tôi lại tham gia Hội đồng chấm luận án tiến sĩ của anh, được biết thêm anh là một người đọc rộng, uyên bác.

  • TRẦN THUỲ MAI(Đọc tập thơ "Quê quán tôi xưa" của Trần Hoàng Phố, NXB Thuận Hoá - Huế 2002)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊNhà văn Nguyễn Quang Hà, trong lời bạt cuốn tiểu thuyết mượn câu thơ nổi tiếng của nhà thơ Cao Bá Quát (“Trường giang như kiếm lập thiên thanh”) làm nhan đề, đã xem đây là “những kỷ niệm đầy yêu thương suốt dọc đường chiến tranh” của mình.

  • VỌNG THẢO(Về tập sách "Vì người mà tôi làm như vậy" của Hà Khánh Linh – NXB Hội Nhà văn – 2002)

  • NGUYỄN THỊ GIANG CHIF.Kafka là một trong những nhà văn lớn nhất của thế kỷ XX, một hiện tượng văn học rất phức tạp, có ảnh hưởng rộng lớn đối với tiến trình phát triển của văn học thế giới, đặc biệt là ở phương Tây.

  • YÊN CHÂU(Đọc “Gặp lại tuổi hai mươi”(*) của Kiều Anh Hương)Ngay bài thơ in đầu tập “Vùng trời thánh thiện” có hai câu đã làm tôi giật mình, làm tôi choáng ngợp:                “Những lo toan năm tháng đời thường                Như tấm áo chật choàng lên khát vọng”

  • VỌNG THẢO... " Đôi trai gái đến nhót từ trong thau ra mỗi người một con cá ngậm ngang mồm, trút bỏ áo quần, trần truồng dắt tay nhau xuống nước. Hai con cá ấy là lễ vật dâng Thần Đầm. Chúng sẽ chứng kiến cái giờ phút linh thiêng hòa nhập làm một của đôi vợ chồng mới cưới, ngay trong lòng nước... Cuộc giao phối xong, đôi trai gái mới được há miệng. Hai chú cá liền bơi đi...".

  • VŨ NGỌC KHÁNH.(Đọc sách Phan Bội Châu- Toàn tập do Chương Thâu sưu tầm, biên soạn. Nhà xuất bản Thuận Hoá và Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây- 2000)

  • VỌNG THẢO(Đọc “Quỷ trong trăng’ của Trần Thuỳ Mai)Đối với người cầm bút, trong những ý niệm thuần khiết nhất của trí tưởng tượng, mỗi người đều có những nhận thức và ám ảnh khác nhau. Riêng Trần Thuỳ Mai, ý niệm thuần khiết trong trí tưởng tượng của chị là một bến bờ xa vắng, nơi ẩn chứa những hạn cuộc huyễn hoặc và khát khao tận cùng trước giả, thật cuộc đời. Đó cũng là điều chị đã gửi gắm trong tập truyện mới: “Quỷ trong trăng” (NXB Trẻ - 2001), tác phẩm văn xuôi được giải tặng thưởng hàng năm của Liên hiệp Hội VHNT Thừa Thiên Huế.

  • NGUYỄN THỊ LÊ DUNGBao đời nay, thơ vẫn là một hằng số bí ẩn bảo lưu chất trẻ thơ trong tâm hồn con người. Nó gắn với đời sống tâm linh mà tâm linh thì không hề có tuổi, do vậy, nên dù ở chu kì sinh học nào, người ta cũng sống với thế giới thi ca bằng trái tim không đổi màu.

  • TẠ VĂN SỸĐọc tập thơ CÁT MẶN của LÊ KHÁNH MAI, NXB Hội nhà văn - Hà Nội 2001

  • LÊ THỊ MỸ ÝĐọc tập truyện ngắn "NGƯỜI ƠI" - Lê Thị Hoài - NXB Thuận Hoá 2001

  • HỒNG DIỆUVâng. Thơ của nhà thơ Nguyễn Bính (1918-1966) viết ở Huế, trong đó có thơ viết về Huế và thơ viết về những nơi khác.

  • HÀ VĂN LƯỠNGBài viết này như là một nén nhang tưởng niệm nhà văn Aitmatov vừa qua đời ngày 11-6-2008)

  • UYÊN CHÂU(Nhân đọc “Mùa lá chín” của Hồ Đắc Thiếu Anh)Những ai từng tha phương cầu thực chắc chắn sẽ thông cảm với nỗi nhớ quê hương của Hồ Đắc Thiếu Anh. Hình như nỗi nhớ ấy lúc nào cũng canh cánh bên lòng, không dứt ra được. Dẫu là một làn gió mỏng lướt qua cũng đủ rung lên sợi tơ lòng: Nghe hương gió thổi ngoài thềm / Trái tim rớm lệ trở mình nhói đau (Đêm nghiêng).

  • LGT:Rainer Maria Rilke (1875 – 1926) người Áo, sinh tại Praha, đã theo học tại Praha, Muenchen và Berlin triết học, nghệ thuật và văn chương, nhưng không hoàn tất. Từ 1897 ông phiêu lưu qua nhiều nước Âu châu: Nga, Worpswede (Ðức) (1900), Paris (1903) và những nước khác trong và sau thời thế chiến thư nhất (Thụy sĩ, Ý…). Ông mất tại dưỡng viện Val-Mont vì bệnh hoại huyết.

  • Giới thiệu tập thơ đầu tiên của anh Khúc ru tình nhà thơ Ngô Minh viết: “Toàn từng làm thơ đăng báo từ trước năm 1975. Hơn 20 năm sau Toàn mới in tập thơ đầu tay là cẩn trọng và trân trọng thơ lắm lắm”.

  • 1. Trước khi có cuộc “Đối thoại với Cánh đồng bất tận” trên báo Tuổi trẻ tháng 4. 2006, Nguyễn Ngọc Tư đã được bạn đọc biết đến với tập truyện ngắn Ngọn đèn không tắt, giải Nhất trong cuộc vận động sáng tác Văn học tuổi XX (lần 2) năm 2000, được tặng thưởng dành cho tác giả trẻ của Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam năm 2000, giải B của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2001…

  • Nhân ngày 9/5 chiến thắng phát xít Đức.

  • ...Đưa người ta không đưa qua sôngSao có tiếng sóng ở trong lòng?...