Văn Tôn - Hải Bằng, một chân dung toàn vẹn

09:22 16/10/2009
NGUYỄN KHẮC PHÊNâng hợp tuyển “Hải Bằng” (HTHB) sang trọng và trĩu nặng trên tay, thật nhiều cảm xúc tràn đến với tôi. Cuốn sách được gia đình nhà thơ Hải Bằng tặng cho tất cả những người đến dự ngày giỗ lần thứ 11 của nhà thơ được tổ chức tại một ngôi nhà mới xây ở cuối đường Thanh Hải - lại là tên nhà thơ quen thuộc của xứ Huế.

Bìa cuốn Hợp tuyển Hải Bằng

Có lẽ hầu hết những bạn bè đã từng sống, từng chia ngọt sẻ bùi, từng viết về Hải Bằng cũng có cảm giác như tôi; bên cạnh sự thích thú được chiêm ngưỡng một công trình văn hoá đẹp và hoàn hảo là nỗi vui mừng trước việc Hải Trung đã hoàn thành xuất sắc ý tưởng đẹp đẽ ấp ủ đã mấy năm, thể hiện sự trân trọng với những tác phẩm và kỷ niệm vui buồn thấm đẫm nước mắt, mồ hôi của thân phụ - một nghệ sĩ đa tài và lắm nỗi truân chuyên. Khi đã lật mở những trang sách thì trong lòng lại có chút như ngỡ ngàng (“Chà! Không ngờ anh Hải Bằng từng khốn khổ như thế mà lại sáng tạo được nhiều tác phẩm như thế!...Cũng không ngờ anh có nhiều bạn bè như thế!...) và một chút như tiếc nuối nữa. Phải! Tôi và rất nhiều người nữa có “vai vế” hơn tôi rất nhiều, đáng lẽ đã có thể làm việc này việc kia, giúp anh đỡ bớt những nỗi nhọc nhằn, những ngộ nhận mà anh đã phải chịu đựng trong phần lớn cuộc đời lận đận của mình…

Nhưng thôi, giờ thì nhà thơ đã ở “cõi khác”, đã gột sạch “bụi trần”, chẳng cần “tau hí” mà cũng chẳng bận tâm níu vai bạn đọc thơ để được nghe một lời khen tặng cho đỡ cơn “khát”, đỡ đơn độc sau những giờ phút tự giam mình, tự “đốt” mình trong ngôi đền thiêng sáng tạo. Chính Hải Bằng từng viết: “Đứng giữa đời đơn độc” (“Không đề” - Thơ ngũ ngôn) và “Mùa đông em lấy lửa của tôi đi / Đến mùa hạ tôi đã thành đám cháy” (“Ngọn lửa” - Thơ hai câu). Phải! Anh đã “cháy” hết, không giữ lại gì cho riêng mình nên mới có HTHB sang trọng và nặng trĩu hôm nay.

Cảm giác “nặng trĩu” khi nâng HTHB trên tay không chỉ do cuốn sách trên sáu trăm trang đóng bìa cứng dày cộp. Thiếu gì sách dày hơn, bề thế hơn. HTHB trĩu nặng chính vì đã chất chứa thành quả cả một đời vắt kiệt sức mình cho sáng tạo cùng với nghĩa tình sâu đậm của bạn bè khắp trong Nam ngoài Bắc. Có thể nói, HTHB không chỉ là “cuốn sách đời người” mà một mặt nào đó, đây là cuốn sách của một thế hệ - những nghệ sĩ hồn nhiên đến với cách mạng và kháng chiến, tự nguyện hoá thân thành “chiến sĩ” đồng hành cùng với dân tộc cho đến ngày toàn thắng, được hưởng niềm vinh quang và nhiều phần thưởng nhưng ít nhiều đều gánh chịu nỗi cay đắng vì một thời ấu trĩ hoặc ngộ nhận…

Thì đó, chỉ riêng 27 bức ảnh in cuối tập sách, bên cạnh 7 bức chân dung của tác giả - từ cậu bé Vĩnh Tôn lúc mới 8 tuổi đến nhà thơ-chiến sĩ Hải Bằng trên đảo Cồn Cỏ anh hùng…, trong những tấm ảnh kỷ niệm của tác giả với bạn bè qua nhiều thời đoạn, chúng ta được gặp lại rất nhiều gương mặt tên tuổi, nhiều người nay cũng đã ở “cõi khác” như Văn cao, Trần Dần, Phùng Quán, Nguyễn Khắc Thứ, Phạm Đăng Trí, Bửu Chỉ; còn nữa là Hoàng Cầm, Mặc Hy, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trần Tiến, Trần Hữu Pháp, Tô Nhuận  Vỹ, Thạch Quỳ, Lâm Mỹ Dạ, Nguyễn Trọng Tạo, Võ Quê, Vĩnh Nguyên…


Như tôi được biết, một số nhà phê bình hiện nay thường có “thao tác” đếm và thống kê trong một tác phẩm, một cuốn sách có bao nhiêu “từ” này “từ” kia, hay mấy lần ngắt câu, xuống dòng thế này thế khác… để đoán định ra “thi pháp” hoặc sở trường, tâm trạng của tác giả. Trong HTHB, Hải Trung không chỉ “thống kê’ mà đã tuyển chọn in đến 203 bài tứ tuyệt về mưa! Về số lượng, đây hẳn là một “kỷ lục” ít có  nhà thơ nào sánh được, còn về mặt nghệ thuật, TS. Hồ Thế Hà, trong bài “Chiếc cầu mưa trong thơ Hải Bằng” đã viết: “Mưa Huế (cùng với Mùa thu) là hai hình tượng có sức ám ảnh lớn và trở thành thi pháp hoài vãng của anh.” Tôi cũng “đếm” và “thống kê”, chỉ thuần về số lượng thôi, đã chứng tỏ sức trĩu nặng của HTHB là một chỉ tiêu chất lượng thật đáng nể trọng. Không kể trên ba trăm trang với hàng trăm bài thơ được tuyển chọn từ 14 tập thơ đã xuất bản, HTHB còn có 14 bức tranh màu, 16 tạo hình bằng rễ cây, 16 ký hoạ chân dung các nhân vật nổi tiếng, 8 bài văn xuôi, trong đó có hai bài viết về Hồ Vi, Dương Tường - hai nhà thơ - chiến sĩ cùng “nằm gai nếm mật” thời “Bình Trị Thiên khói lửa” với Hải Bằng và những trang hồi ký xúc động về cuộc đời mình...

Hải Bằng từng viết “Đứng giữa đời đơn độc” nhưng có lẽ đó chỉ là tình cảnh trong một thời đoạn khó khăn và tâm trạng người nghệ sĩ đang hướng đến sự thanh khiết và cái cao cả trong khi cuộc đời quanh mình lại quá nhiều điều lố lăng, giả trá; chứ mấy nhà thơ được nhiều bạn bè thương quý, đồng cảm và chia sẻ mọi nỗi vui buồn như anh? HTHB có những con số hùng hồn nói lên điều đó. Có đến 33 thi hữu làm thơ tặng anh, trong đó có những tên tuổi lớn của nền thơ Việt như Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Anh Thơ, Hữu Loan, Phùng Quán, Nguyễn Khoa Điềm… và cả của một nhà thơ Nga, của kiến trúc sư Nguyễn Trọng Huấn. Cùng với 20 bài phê bình thơ, 17 bài viết của các nhà phê bình, nhà văn đã khắc hoạ một chân dung nghệ sĩ Hải Bằng toàn vẹn, từ giá trị của nghệ thuật ngôn từ đến sự tìm tòi trong cấu tứ và cách nhìn hiện thực, từ ngọn nguồn và chất liệu làm nên các tạo hình rễ cây đến tính cách riêng…


Tác phẩm "Từ hố bom bay lên" từ những rễ cây


Có thể nói đây cũng là sự thể hiện lẽ công bằng của cuộc đời, là luật “bù trừ” của tạo hoá. Ai tính được nỗi buồn tủi trong những năm tháng dài dằng dặc anh phải sống “đơn độc” - kể từ lúc bài thơ có tính nhân đạo rất cao “Người nữ cứu thương người Pháp” (lúc đó anh còn lấy bút danh “Văn Tôn”) bị đưa lên “bàn mổ” trong Hội nghị Chỉnh huấn năm 1952 nhằm “nâng cao lập trường giai cấp, xác định rõ bạn thù, tăng cường tính chiến đấu trong sáng tác” (theo hồi ký của nhà thơ Lương An) cho đến thời anh đăng tranh châm biếm phê phán thủ tục hành chính lề mề và cảnh chen lấn ở cửa hàng mậu dịch trên báo “Trăm hoa” năm 1956 (gần đây, hai tệ nạn này còn bị phê phán liên tục trên một số tờ báo lớn!), rồi những ngày “tham gia sản xuất, đánh cá” với bà con làng Cảnh Dương…

Là người lính trước khi trở thành nhà thơ, chàng trai hoàng tộc Vĩnh Tôn đã sẵn sàng chấp nhận hy sinh khi mới 15 tuổi, nên anh đủ bản lĩnh vượt qua mọi sóng gió trên trường đời. “50 năm qua / Suốt đường độc đạo / Tôi hát với mình / Đầu ngón chân luyện đá / Thuở hành quân / Không có dấu quay lui…” (Trường ca “Độc hành”)  Hải Bằng “không quay lui” trước mọi thử thách, nên anh đã tới đích vinh quang. Anh đã bị “mất”, bị “trừ” đi nhiều thứ trong cuộc đời 68 năm của mình, “bù” lại, hôm nay anh có được “Hợp tuyển” xứng đáng với những đóng góp đa dạng của một nhà văn - nghệ sĩ - chiến sĩ trưởng thành từ Cách mạng Mùa Thu Tháng Tám, với sự tụ họp bạn bè nhiều thế hệ đông vui - tất cả đã họp thành bức chân dung “Văn Tôn-Hải Bằng” sinh động nhất và cũng toàn vẹn nhất từ trước đến nay.

N.K.P
(247/09-09)

 

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN ĐÔNG NHẬT19 lời chứng của những ONS(1) cuối cùng, lần đầu tiên được lên tiếng qua công trình nghiên cứu hoàn hảo của bà Liêm Khê LUGUERN(2) là những nhân chứng cuối cùng trong số khoảng 27.000 người từ Đông Dương bị lùa đến nước Pháp từ tháng 10/1939 đến tháng 6/1940 để phục vụ cho guồng máy chiến tranh của thực dân Pháp trong Thế chiến thứ II.

  • LÝ HẠNHAi trong đời chẳng đã một lần làm thơ. Dù làm thơ để giải trí hay sẻ chia thì những trang thơ ấy cũng là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tâm hồn.

  • LTS: Có một chuyện ít người biết là các nhà văn Tô Hoài, Xuân Diệu, Huy Cận không nhớ ngày sinh của mình. Xuân Diệu, con nhà Nho, thì biết mình sinh giờ Thìn, ngày Thìn, tháng Thìn, năm Thìn, nhưng không biết dương lịch ngày nào. Nhà văn Tô Hoài cũng vậy, nhưng nhớ Bà Cụ cho biết sinh ông đêm rằm Trung Thu. Sau này, sang Nga, bạn người Nga hỏi, mới tra ra ngày Tây là 27-9-1920. Do đó trên các tư liệu, thường thấy ghi ngày sinh: 07-9-1920, và nhà văn cũng không buồn đính chính. Nhân kỷ niệm 90 năm ngày sinh nhà văn Tô Hoài, Sông Hương nhận được bài viết của nhà văn Đặng Tiến cùng thông tin về ngày sinh Tô Hoài nói trên. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.

  • HOÀNG DŨNGKhông phải ngẫu nhiên khi ta nói vũ trụ, thế giới thì vũ, giới là không gian, mà trụ, thế là thời gian. Ngay trong những khái niệm tưởng chỉ là không gian, cũng đã có thời gian quấn quýt ở đấy.

  • LTS: Trong các ngày 7-9/9/2010 sắp đến, Ủy ban Văn hóa Hội đồng Giám mục Việt Nam và Tòa Tổng Giám mục Giáo phận Huế sẽ tổ chức Hội thảo về thân thế và sự nghiệp của Léopold Cadière (1869-1955), Nhà nghiên cứu về Huế và Việt Nam học, chủ bút của tập san Bulletin des Amis du Vieux Hué (B.A.V.H), một trong số các tờ báo hay nhất ở Đông Dương thuở trước. Hội thảo sẽ có một số nội dung liên quan đến văn hóa Huế như Văn hóa Huế, Mỹ thuật Huế, Cổ vật Huế dưới con mắt của L. Cadière... Nhân dịp này, Tạp chí Sông Hương đăng bài viết của nhà nghiên cứu Hồ Vĩnh, chuyển tải vài nét về hoạt động văn hóa của Léopold Cadière. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.S.H

  • NGUYỄN THỊ HÒA Không cần phải bàn cãi, Từ điển tiếng Huế của Tiến sĩ, Bác sĩ Bùi Minh Đức là một tác phẩm Từ điển. Một quyển từ điển về phương ngữ địa phương Huế mà dày dặn, công phu, với 2050 trang, thể hiện công sức nghiên cứu miệt mài của một vị bác sĩ - nghiệp dư với nghề ngôn ngữ, nhưng đầy nhiệt tình và khá chuyên nghiệp trong nghiên cứu.

  • Sinh ngày 6-2-41 tại Huế. Hy sinh ngày 11-10-68 tại vùng biên giới tỉnh Tây Ninh, nguyên quán làng Bát Tràng tỉnh Bắc Ninh. Học sinh cũ Trường Quốc Học, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Ban Việt văn. Tên thật và bút hiệu công khai, chính thức: Trần Quang Long. Các bút hiệu khác: Thảo Nguyên, Chánh Sử, Trần Hoàng Phong.

  • TRẦN HỮU LỤCỞ tuổi 20, hành trình sáng tác của Nhóm Việt gắn liền với những biến cố lịch sử ở miền Nam (1965-1975). Những cây bút trẻ của Nhóm Việt đã bày tỏ một thái độ dấn thân ngày càng sâu sắc, vừa trên bình diện ý thức công dân, vừa trên bình diện ý thức nghệ sĩ.

  • PHONG LÊ(Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Nguyễn Tuân 10-7-1910 – 28-7-1987)

  • NGUYÊN QUÂN Phía đằng sau những con chữ bình dị như một chốn quê nhà chưa bị ô nhiễm cơn đau phố bụi, một ngôi làng yên bình vẫn luôn hằng hiện trong mỗi hơi thở, mỗi bước gian truân của tác giả là sự chân thật đến nao lòng.

  • LÝ HOÀI THU Những câu thơ đầu tay của Hữu Thỉnh cất lên từ những cánh rừng Trường Sơn được anh gọi là “Tiếng hát trong rừng”. Anh viết về đồng đội, về cơn sốt rét rừng, về những trận bom và vết hằn xe xích, về mây, suối, dốc, thác Trường Sơn.

  • THÁI DOÃN HIỂU…Khi sự vong ân bội nghĩa của người đời đang diễn ra ở khắp đó đây thì Hoàng Trần Cương là người sống bằng ân sâu nghĩa cả. Với anh, ân nghĩa là một gánh nặng phải gánh. Anh nói về ân nghĩa như là một thứ trí nhớ của lương tri, một món nợ không bao giờ trả xong…

  • VŨ DUY THÔNG        (Thơ - Nghiêm Huyền Vũ, Nxb Trẻ 2000)Khác với bên ngoài, Nghiêm Huyền Vũ trong thơ là người trầm tư, cái trầm tư nhuốm vị triết học.Vây bọc quanh anh là không gian, thứ không gian cô liêu.

  • TRẦN QUỐC THỰCÍt người chịu đi tìm tiếng nói riêng khi đọc một tập thơ, một chặng thơ của một người. Qua từng chặng thơ, tiếng nói riêng ấy sẽ trở thành một cách thơ riêng biệt. Và đó là điều đáng mừng cho đội ngũ sáng tác.

  • NGUYỄN THANH TÚ          (Phác thảo chân dung nhà văn Nguyễn Bảo)

  • LGT: Cuốn tiển thuyết “Biết đâu địa ngục thiên đường” của nhà văn Nguyễn Khắc Phê vừa xuất bản được xem là tác phẩm thành công nhất của ông, cũng là cuốn tiểu thuyết viết kỹ lưỡng nhất, lâu nhất. Cuốn tiểu thuyết này hiện nay nằm trong danh sách những cuốn vào chung khảo cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam. Sông Hương xin giới thiệu những ý kiến nhận định rất chân thành của Giáo sư Trần Đình Sử, nhà văn Ma Văn Kháng và nhà nghiên cứu phê bình Từ Sơn.

  • FAN ANHCon người khác con vật không chỉ ở đặc điểm con người có một bản ngã, một cái tôi luôn biến động, mấu chốt nằm ở chỗ, con người có thể có nhiều bản ngã khác nhau, tồn tại một cách âm thầm trong những thế giới mà nhiều khi ngay bản thân mỗi cá nhân chúng ta cũng không thể am tường hết.

  • VĂN CẦM HẢI(Nhân đọc “Giọng nói mơ hồ” - Nguyễn Hữu Hồng Minh. Nxb trẻ 1999)

  • ĐỖ NGỌC YÊNHồ Quý Ly là một nhân vật lịch sử có thật. Hơn nữa ông đã từng làm đến chức quan Thái sư dưới thời nhà Trần khoảng từ năm 1370 - 1400, và lập nên nhà Hồ từ năm 1400 - 1407.

  • Phỏng vấn nhà nghiên cứu Nguyễn Việt - chuyên viên Hiệp hội CLB UNESCO Việt Nam – nhân cuộc triển lãm thư pháp thơ “Nhật ký trong tù” của Bác Hồ tại Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên Huế 8-2000