HUỲNH NHƯ PHƯƠNG
Mở đầu bài viết này, chúng tôi xin nói đến hai sự kiện văn học diễn ra gần đây.
Ảnh: internet
Sự kiện thứ nhất: Sáu giờ chiều, giờ Việt Nam, ngày 13/10/2016, khi Ủy ban Giải thưởng Nobel về văn học công bố Bob Dylan đoạt giải, thì ngay sau đó bản tin này được loan đi trên các trang mạng toàn cầu, gây ra những phản ứng trái chiều trong giới sáng tác và học thuật. Chỉ mấy tiếng đồng hồ sau, trên các tờ báo lớn ở phương Tây đã xuất hiện những bài bình luận về sự kiện gây tranh cãi này. Ở Việt Nam, phản ứng của dư luận cũng không chậm hơn là mấy. Từ sáng sớm ngày 14/10, đồng loạt các báo đưa tin, bài về giải thưởng và liên tiếp mấy ngày sau đó phản ánh sự phân hóa trong thái độ của giới trí thức sáng tạo. Những người phản đối bày tỏ sự thất vọng và bất bình sâu sắc, khi Bob Dylan, vốn đã được vinh danh trong các giải thưởng âm nhạc, thường chỉ nằm trong top 20 những ứng viên của giải Nobel, trong khi nhiều tên tuổi sáng giá khác trọn đời hiến dâng cho văn chương chuyên nghiệp phải mòn mỏi chờ đợi xướng tên từ năm này sang năm khác. Những người tán thành thì hoan nghênh một quyết định dũng cảm và hợp thời của Ủy ban Nobel, đã mở rộng hàm nghĩa của văn học, đưa văn học bước ra khỏi tháp ngà của chữ nghĩa, và liên hệ trường hợp Bob Dylan với hai người nhạc sĩ du ca Việt Nam nổi tiếng là Trịnh Công Sơn và Trần Tiến. Cả hai phái đó ở Việt Nam không chỉ thảo luận trên các mặt báo mà cả quanh bàn cà phê và với tâm trạng khác nhau, cùng hồi hộp chờ đợi Bob Dylan lên tiếng sau thời gian im lặng khá lâu. Trong lúc đó, nhiều người kiên nhẫn và bình tâm đọc lại thơ và ca từ của Bob Dylan; đồng thời trong các hiệu sách những bản in cuối cùng của cuốn Trịnh Công Sơn và Bob Dylan: như trăng và nguyệt? của John C. Schafer, qua bản dịch của Cao Thị Như Quỳnh, với lời giới thiệu của Cao Huy Thuần, cũng được bạn đọc tìm mua hết.
Sự kiện thứ hai xảy ra sáu tháng trước sự kiện thứ nhất. Tháng tư năm nay, nhà văn Nguyễn Thanh Việt đoạt giải thưởng Pulitzer cho tiểu thuyết đầu tay The Sympathiser. Dù đánh giá tác phẩm này từ góc độ nào, những người Việt yêu văn học đều phải thừa nhận đây là một giải thưởng danh giá mà lần đầu tiên một nhà văn Việt Nam nhận được. Ngay sau khi giải thưởng được công bố, một cơ quan làm sách ở Hà Nội đã đặt mua tác quyền cuốn sách này để dịch ra tiếng Việt và xuất bản trong nước. Hiện không rõ dự án này tiến hành đến đâu và có gặp trở ngại gì về thủ tục hay không, nhưng đối với bạn đọc có quan tâm, việc tiếp cận văn bản Anh ngữ của tác phẩm này không phải là quá khó. Và những gì Nguyễn Thanh Việt phát biểu chung quanh tác phẩm ấy cũng như về văn học nói chung vẫn được giới chuyên môn chú ý theo dõi. Hy vọng về một giải thưởng Nobel về văn học dành cho người Việt Nam lâu nay tưởng chừng chỉ là ảo vọng, nay đã thấy một tín hiệu của tương lai, dù có lẽ là một tương lai còn xa lắm.
Chúng tôi nêu hai sự kiện trên như là những dấu hiệu đời sống văn học nước ta tiếp cận với thời đại toàn cầu hóa và không đứng ngoài dòng chảy của tiến trình văn học thế giới.
Nếu hiện đại hóa, công nghiệp hóa là một chọn lựa thì toàn cầu hóa không hẳn là một chọn lựa. Đúng hơn, nó là hệ quả tất yếu, một hệ quả không cưỡng được của hiện đại hóa. Nếu thời gian để cái máy in chữ kim loại phát minh ở phương Tây đến với nước ta phải tính hàng trăm năm, thì khoảng thời gian đó đối với cái máy vi tính chỉ không đầy mươi năm. Toàn cầu hóa về văn hóa không tách rời với toàn cầu hóa về kinh tế và thị trường, tuy có thể chậm hơn một vài nhịp. Nếu việc ký kết và thực thi công ước Berne dường như không ảnh hưởng tức thì đến thị trường sách báo, băng đĩa ở nước ta; thì việc tham gia các hiệp định thương mại tự do chi phối rõ rệt sản xuất và tiêu thụ hàng hóa nội địa Việt Nam, khi phải đối mặt với hàng hóa ngoại nhập và các hệ thống siêu thị nước ngoài trong cuộc cạnh tranh khốc liệt về chất lượng và giá thành. Người Việt Nam đang chứng kiến: một mặt, thịt bò, thịt gà, bánh kẹo… nước ngoài dần dần chiếm lĩnh sân nhà; mặt khác, các mặt hàng giày da, may mặc ngày càng sút giảm thị phần xuất khẩu, con cá da trơn bị áp thuế chống phá giá, trái thanh long bị kiểm định chất lượng ngặt nghèo và những đoàn xe chở vải thiều ùn tắc ở cửa khẩu Lạng Sơn.
Những người làm văn học chúng ta nghe những chuyện nói trên tưởng chừng như một cái gì xa xôi, thậm chí tầm thường, nhưng kỳ thực, đều liên quan đến văn học. Cả dân tộc đang đối mặt với toàn cầu hóa và có thể nói toàn cầu hóa đang tác động đến số phận đất nước, cũng như số phận từng gia đình, từng con người. Những con đập ở đầu nguồn đang làm cạn kiệt dần sông Cửu Long, những nhà máy điện hạt nhân cố tình xây dựng áp sát biên giới nước ta, thảm họa môi trường biển do Formosa gây ra, những nhà máy khai thác khoáng sản như những quả bom treo lơ lửng trên cao nguyên… đều có “yếu tố nước ngoài”, là hậu quả từ mặt trái của toàn cầu hóa. Những xung đột chủng tộc và chủ nghĩa khủng bố bây giờ không giới hạn trong một châu lục nào, miền đất nào, mà có thể động đến mọi nơi.
Trong thế giới đang biến đổi với không ít hiểm họa đó, văn học có thể làm gì để bảo vệ dân tộc, bảo vệ con người và bảo vệ chính mình? Văn học chủ lưu của dân tộc cần thu hút phù sa và dưỡng khí từ đất trời của Tổ quốc. Tuy rất kính trọng nhà văn hóa Phạm Quỳnh, và cũng như mọi người Việt Nam, rất yêu tiếng Việt và Truyện Kiều, nhưng từ lâu tôi không tin rằng “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn; có gì mà lo, có gì mà sợ…”. Không, sự còn mất của đất nước không phải chỉ liên quan đến địa hạt ngôn ngữ hay văn học, dù đây là những giá trị vô cùng quan trọng; mà còn là, và chủ yếu là, ở cương vực, lãnh thổ, ở chủ quyền dân tộc, những nền tảng hiện thực cho văn hóa phát triển. Nói “mất văn hóa mới là mất tất cả” có thể gieo rắc ảo tưởng rằng mất chủ quyền, mất lãnh thổ chưa phải là điều đáng sợ. Văn hóa suy đồi chắc chắc sẽ làm suy nhược tinh thần dân tộc, làm rã rời sức mạnh bảo vệ đất nước. Nhưng chủ quyền dân tộc, cương vực, lãnh thổ của Tổ quốc là giá trị vĩnh cửu, là thực thể bất khả nhượng; trong khi văn hóa thì vận động và biến đổi.
Ngày trước ông bà chúng ta đã từng lo âu, thậm chí hoảng hốt trước làn sóng hiện đại hóa và công nghiệp hóa. Người thiếu nữ trong thơ Nguyễn Bính chỉ mới ra tỉnh có một ngày, mang về một chút đổi thay, đã khiến người trai làng khổ tâm, hờn dỗi. Ngày nay bao nhiêu người con gái bỏ làng đi lấy chồng Đài Loan, Hàn Quốc… và mang về những đứa con hai giòng máu trước con mắt ngỡ ngàng của các chàng trai hàng ngày vùi đầu trên chiếu nhậu. Họ đã “mất bao nhiêu người tình” trong cuộc “toàn cầu hóa” dị thường này.
Tác động của toàn cầu hóa đối với gia đình Việt Nam không chỉ xuất hiện trên bề mặt như thế mà thôi. Trong âm thầm, một bộ phận tuổi trẻ đang bứt ra khỏi sợi dây liên kết về tinh thần và nới dần khoảng cách với các thế hệ trước không phải chỉ vì họ đi xa tìm kế mưu sinh, mà vì họ có blog, có facebook để kết nối với một thế giới khác do những quy luật giá trị khác điều chỉnh. Toàn cầu hóa đang biến không ít người trẻ trở thành những “người xa lạ”, theo nghĩa hoàn toàn trung tính - nghĩa là chưa định giá là tích cực hay tiêu cực, ngay trên quê hương mình. Không phải quá lời, khi có người nói một cách hình ảnh rằng toàn cầu hóa đang đi vào phòng riêng của từng gia đình.
Trước tình hình đó, chúng ta có nên hoảng hốt không? Có lẽ không nên, vì mấy lý do sau đây:
Một, sự hoảng hốt sẽ không đi đến đâu và không giải quyết được gì. Điều quan trọng là phải điềm tĩnh. Chúng ta không thể khước từ toàn cầu hóa, bởi trong thế giới liên lập ngày nay, không nước nào có thể đứng ngoài lề như đứng trên hoang đảo. Chúng ta chấp nhận toàn cầu hóa, nhưng chúng ta phải lựa chọn những khả năng và mục tiêu của toàn cầu hóa. Văn học và văn hóa góp phần định hướng cho sự chọn lựa này, vì chủ quyền của dân tộc và quyền con người, để phát huy phương diện nhân đạo của toàn cầu hóa và kiềm chế phương diện phi nhân của nó.
Hai, toàn cầu hóa là thử thách không chỉ với Việt Nam mà với tất cả các dân tộc trên thế giới. Các tộc người, các tôn giáo, các nền văn minh đều đang bị giằng xé giữa hai chọn lựa: hòa nhập với thế giới hay co cụm lại và cố thủ trong những pháo đài để tự vệ? Đâu phải, so với các dân tộc khác, người Việt Nam không đủ năng lực giải quyết những vấn đề đặt ra cho đất nước mình. Đại đa số người Việt chúng ta không phải là những con đà điểu chui đầu vào cát, mà vẫn biết mở mắt và lắng nghe những động tĩnh của thời đại, để tìm cách ứng xử phù hợp nhất cho dân tộc mình.
Ba, sức tác động của toàn cầu hóa không phải là vô hạn. Toàn cầu hóa cũng có những vấn đề của nó và nó phải tự điều chỉnh trên con đường gập ghềnh của sự phát triển. Sự quay lại của chủ nghĩa bảo hộ, việc nước Anh rút ra khỏi Liên minh châu Âu, việc Donald Trump thắng cử tổng thống Hoa Kỳ và số phận TPP đang treo lơ lửng trước viễn cảnh phá sản là những dẫn chứng. Như một nghịch lý, những ai chưa quá hăng hái thì chưa phải là “những kẻ thua cuộc trong toàn cầu hóa”. Nhưng lịch sử thường khi cũng không có phần cho những kẻ chần chừ hay “chân trong chân ngoài” để sẵn sàng rút lui khi cần thiết.
Trở lại với đời sống văn học, mặc dù quá trình toàn cầu hóa ở Việt Nam chỉ mới ở bước khởi đầu, chúng ta cũng có chút ít kinh nghiệm.
Thứ nhất, về thành tựu sáng tác văn học thế giới, nửa đầu thế kỷ 20 hầu như không có nhà văn được giải thưởng Nobel nào được dịch ra tiếng Việt. Từ những năm 1960 ở miền Nam bắt đầu dịch Rabindranath Tagore, Anatole France, Thomas Mann, Pearl S. Buck, Hermann Hesse, André Gide, Ernest Hemingway, Albert Camus, Boris Pasternak, Jean-Paul Sartre, Ivo Andritch, John Steinbeck, Mikhail Sholokhov, Chmuel Yosef Agnon, Yasunari Kawabata, Samuel Beckett, Aleksander Solzhenitsyn, Heinrich Boll… Công việc này diễn ra với tốc độ nhanh hơn từ thời hội nhập và toàn cầu hóa. Chúng ta tiếp nhận khá nhanh nhạy những cái khác và cái mới so với kinh nghiệm thẩm mỹ của dân tộc, từ cả phương Tây lẫn phương Đông: Gabriel Gacxia Marquez, Claude Simon, Naguib Mahfouz, Octavio Paz, Nadine Gordimer, Toni Morrison, Kenzaburo Oe, Wislawa Szymborska, Gunter Grass, Cao Hành Kiện, V. S. Naipaul, J. M. Coetzee, Elfriede Jelinek, Orhan Pamuk, Doris Lessing, Le Clézio, Mario Vargas Llosa, Alice Munro, Mạc Ngôn, Patrick Modiano, Svetlana Alexievich… Giải thưởng Nobel không phải lúc nào cũng công tâm, nó từng bị điều tiếng vì nhầm lẫn hay bỏ sót những thiên tài; nhưng dù sao đây vẫn là giải thưởng có uy tín lớn và được chờ đợi nhất trên thế giới. Tất nhiên, những nhà văn đoạt giải Nobel chỉ là một phần nhỏ của thành tựu văn học thế giới và tác phẩm của họ cũng chỉ là một phần nhỏ trong số tác phẩm văn học nước ngoài được dịch sang tiếng Việt.
Về các khuynh hướng nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học thế giới, nếu trước đây phân tâm học, lý thuyết tiếp nhận, chủ nghĩa cấu trúc đi vào Việt Nam không ít vất vả, thì gần đây lý thuyết giải cấu trúc, phê bình hậu thực dân, phê bình sinh thái không phải chờ đợi quá lâu để được giới thiệu ở nước ta. Chỉ cần nhìn danh mục chuyên khảo của các giảng viên đại học và đề tài các luận văn, luận án cũng có thể ghi nhận phần nào mối quan tâm về học thuật trong trường đại học dưới tác động của toàn cầu hóa.
Thứ hai, là những người sản xuất trên lĩnh vực tinh thần, các nhà văn Việt Nam cũng chịu sự kiểm định của thị trường văn học như những người sản xuất nông sản hay thủy sản. Có điều, thước đo kiểm nghiệm ở đây là thị hiếu và sự thưởng thức của con người thời đại. Trong khi Truyện Kiều và thơ Hồ Xuân Hương vẫn chinh phục một lượng công chúng đương đại nước ngoài thì văn học hiện đại của ta lại không dễ gõ cửa tâm hồn của họ. Được đón nhận ở nước ngoài hiện nay chủ yếu không phải là tác phẩm của Tô Hoài, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc, Nguyễn Minh Châu… mà là của Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Nguyễn Nhật Ánh, Nguyễn Ngọc Tư… Ngay những nhà văn ở hải ngoại tiếp cận rộng rãi với công chúng nước sở tại không phải là Võ Phiến, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn Mộng Giác… mà là Linda Lê, Nam Lê, Monique Trương, Nguyễn Thanh Việt… Sự đón nhận đó chắc không phải vì lý do chính trị thuần túy, mà hẳn còn nhiểu lý do khác nữa, cần được tìm hiểu khách quan, cặn kẽ.
Thứ ba, theo thiển ý, tình trạng nói trên có nguyên do từ cảm quan nghệ thuật của nhà văn và tâm lý tiếp nhận của bạn đọc, đồng thời cũng có nguyên do từ ngôn ngữ chuyển tải. Hãy thử xem xét hiện tượng này: trước 1975, ở miền Nam bạn đọc tiếp nhận và yêu thích văn học Nga đâu phải nhờ con đường dịch thuật trực tiếp từ tiếng Nga mà qua trung gian của tiếng Pháp, tiếng Anh. Còn sau 1975, nhiều tác phẩm văn học Việt Nam được dịch sang tiếng Nga và phát hành hàng chục ngàn bản, vậy mà đây vẫn không phải là chiếc cầu để văn học Việt Nam đi ra thế giới. Một hiện tượng khác: chúng ta đã dịch ra tiếng Việt rất nhiều tác phẩm cổ điển và hiện đại Trung Quốc, cả văn học tinh hoa lẫn văn học đại chúng, vậy mà kết quả ở chiều ngược lại thật là nhỏ bé. Tình trạng “nhập siêu” quá lớn trong giao lưu văn học này tương ứng với nhập siêu trong thương mại mà nước ta phải chịu đựng. Phải chăng ở đây không chỉ có sự chi phối của thị trường mà có cả sự “điều tiết” của chính sách?
Những dữ kiện trên đây có thể giúp ta cân nhắc, xem xét để đi đến những chọn lựa trong giao lưu văn học thời toàn cầu hóa. Như người ta thường nói, khi tham gia một cuộc chơi lớn, hoặc ta phải chấp nhận luật chơi của nó, hoặc ta áp đặt luật chơi của ta. Với lực và thế của nước ta, khả năng thứ hai chỉ là chuyện viển vông. Nhưng điều đó không có nghĩa là ta chấp nhận vô điều kiện luật chơi của người khác. Bởi văn học mãi mãi vẫn là tiếng nói phản ứng của lương tri trước mọi lạm dụng và cưỡng ép. José Saramago, nhà văn Bồ Đào Nha được giải thưởng Nobel năm 1998, là người phản đối, đôi khi hơi cực đoan, những định chế của toàn cầu hóa gò ép nhân loại vào những khuôn khổ. Điều thú vị là chính nhờ toàn cầu hóa, trong đó giải Nobel cũng là một định chế, mà tác phẩm của ông, “mới gọi được cánh cửa trái tim của những người cùng thời” như ông từng ao ước.
H.N.P
(TCSH335/01-2017)
THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm. VẠN HẠNH Thiền sư
HỒ THẾ HÀ Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.
LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết: Đào tiên đã bén tay phàm Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?
CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.
PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.
HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.
BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.
NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.
NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.
PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...
TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".
MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.
HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.
TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H
TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.
TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.
NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...
BẢO CHI (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...
ĐỖ LAI THÚY Văn là người (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.
ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.