Văn hóa ẩm thực cung đình Huế

10:45 08/07/2009
NGÔ MINHHuế trên 350 năm là thủ phủ Chúa Nguyễn Đằng Trong và Kinh Đô của Đại Việt đã tích tụ nhân tài, vật lực cả quốc gia tạo ra một hệ thống Di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc và nổi tiếng như nhã nhạc, lễ hội dân gian, văn hóa ẩm thực... Trong Di sản văn hóa ẩm thực Huế, Văn hóa ẩm thực Cung đình là bộ phận tinh hoa nhất, giá trị nhất!

Ẩm thực cung đình Huế (Ảnh: amthuc365.vn)

Ẩm thực cung đình là nghệ thuật chế biến món ăn cao cấp và cách thức tổ chức bữa ngự thiện của Vua; tổ chức tiệc yến trong Hoàng cung vào dịp các Tết, lễ, tiệc yến. Tiệc yến là những bữa ăn được các đầu bếp giỏi  chế biến công phu, cầu kỳ, sang trọng nhất nước. Nên văn hóa ẩm thực cung đình Huế chính là phần tinh túy, cốt lõi nhất của văn hóa ẩm thực Huế, văn hóa ẩm thực Đại Việt xưa. Văn hóa ẩm thực không chỉ là nghệ thuật chế biến, trình bày các món ăn, mà cao hơn là quan niệm triết lý, tư tưởng thẩm mỹ  trong thưởng thức món ăn.

Ẩm thực Cung đình Huế có khá nhiều các luật lệ, nghi thức từ việc cung ứng thực phẩm, chế biến, phục vụ, các kiểu mâm bàn, chén bát, đũa.v.v.. Vua ăn  gọi là Ngự Thiện, dụng cụ ăn của vua gọi là đồ Ngự dụng ; đội phục vụ vua ăn gọi là Đội Thượng Thiện. Mỗi bữa vua Minh Mạng, Đồng Khánh, Khải Định ăn từ 35 đến 50 món, trong đó phải có một vài món thuộc bát trân (tám món quý nhất gồm: Nem công, chả phượng, da tây ngu, bàn tay gấu, gân nai, môi đười ươi, thịt chân voi và yến sào). Từng món được múc ra tô, đĩa rồi đặt trong các quả hộp bằng gỗ sơn son thiếp vàng, đậy nắp lại mang đi, có lính cầm lọng che. Đến giờ ăn, chuông đổ, các món ăn được đầu bếp chuyển cho quan thị vệ đưa qua Đoàn thái giám. Thái giám chuyển đến năm cung nữ quỳ dâng cơm lên Đức Kim Thượng. Có một viên quan chuyên vót đũa và tăm tre cho vua dùng. Đũa vua dùng được vót bằng tre vừa mới trổ đủ lá và mỗi ngày thay một lần. Tăm vua dùng gọi là “tăm bông”, tăm dài gần gang tay, đầu lớn  được chẻ ra như từng sợi mảnh uốn cong ra ngoài trông như hoa. Đầu nhọn để xỉa răng, đầu “hoa” để chùi răng cho sạch. Đồ ngự dụng như chén, bát, đĩa, bình trà, chén uống trà, uống rượu là đồ sứ men lam mua từ Trung Quốc. Cơm của vua ăn được nấu bằng gạo De (An Cựu) được lựa từng hạt! Nồi nấu cơm là một cái niêu đất nhỏ do làng gốm Phước Tích sản xuất! Đũa ăn của vua Đồng Khánh phải vót từ gỗ của cây kim giao . Gỗ kim giao có khả năng đổi màu báo hiệu khi có chất độc ở trong món ăn. Gỗ này khai thác ở đỉnh núi Bạch Mã .

Theo Khâm định Đại nam Hội điển sự lệ, Đội Thượng Thiện có tới 50 người, có nhiệm vụ: “Phàm hàng ngày tiến các thứ ngọc thực, mỹ vị đều chuẩn bị theo đúng cách thức nấu món ăn mà làm...Phàm thứ gạo quý nào dành cho vua dùng, thì chiếu theo Bộ Hộ chuyển tiến, mỗi tháng ba lần, phải kính cẩn kiểm tra cho đủ. Đến như nước lã dùng hàng ngày, cung tiến vào trong cung ngự..phải kính cẩn soi xét, gạn lọc trong sạch cho đúng phép...Phàm khi nấu món ăn, cốt phải mười phần tinh sạch..” (1). Việc chế biến món ăn cho vua cũng có quy định riêng, đại ý: Nếu làm cơm cho vua mà lầm thức phải kiêng, đầu bếp bị phạt 100 trượng; thức ăn không sạch sẽ phạt 80 trượng, chọn lầm nguyên liệu phạt 60 trượng; làm cơm, sắc thuốc cho vua mà không nếm trước, phạt 50 roi; ai mang các vị thuốc đến  khu bếp nấu cơm cho vua ăn sẽ bị phạt 100 trượng (sợ bỏ thuốc độc) (2) ..v.v.. Những luật lệ nghiêm  ngặt, nghi thức khắt khe ấy  lâu năm dần trở thành nét văn hóa cung đình ảnh hưởng sâu đậm đến văn hóa ẩm thực Huế.

Văn hóa ẩm thực Cung Đình Huế bắt nguồn từ ẩm thực dân gian. Người Việt từ đồng bằng sông Hồng, Thanh- Nghệ Tĩnh di cư theo chúa Nguyễn vào Thuận Hóa mang theo tập quán ăn uống của mình. Rồi tục lệ  tiến cúng món ngon vật lạ cho vua, món quê mùa dân dã lại theo người đẹp, người tài xâm nhập cung vua phủ chúa, được dọn lên bàn yến tiệc, thành quốc túy quốc hồn ... Những người già ở Cồn Hến kể rằng, hến Cồn đã được “tiến vua” suốt thời Khải Định, Bảo Đại, vì bà Từ Cung, mẹ vua Bảo Đại xuất thân là cô gái bán cháo bò xinh đẹp ở làng Mỹ Lợi, Phú Lộc, rất thích. Tương truyền, Hoàng Thái hậu Từ Dũ, mẹ vua Tự Đức, người Gò Công, đã sai người bới mắm tôm chà và tận Gò Công ra Cung vua để ăn cho đỡ nhớ nhà! Vua Tự Đức còn có bà Trung Phi họ Vũ ở trong cung lâu ngày, nhớ nhà nên xin cha là Đông Cát Đại học sĩ Vũ Xuân Cẩn, một quan lớn, lo cho mỗi năm vài lọ mắm nêm. Dần dà theo thời gian, các món ngon dân gian được định hình, lưu truyền và nâng cao thành các món cung đình Huế. Qua mấy ví dụ trong sách sử trên, ta thấy rõ nguồn cội của ẩm thực Cung Đình Huế là ẩm thực dân gian ở cả ba miền Trung Nam Bắc hòa quyện với linh khí đất đai sông Hương núi Ngự mà thành!

Theo sử sách, thì vùng Thuận Hóa -Huế trước khi thuộc Đại Việt là đất của người Chăm. Tập tục sinh hoạt và ăn uống tinh túy của người Chăm có ảnh hưởng nhất định đến văn hóa ẩm thực Huế. Nhiều món mắm Huế đều có gốc tích từ món ăn Chăm. Rồi các tộc người trên mái Trường Sơn (Kờtu, Tà Ôi- Mường) là chủ nhân của nước Việt Cổ cũng có đặc điểm, nhu cầu ăn uống riêng của họ, góp vào. Các món nướng trong ẩm thực cung đình Huế là có nguồn gốc từ các món ăn  người Việt Cổ.  Rồi người Hoa đến Huế mang theo văn hóa ẩm thực của mình. Đó là các món nấu, ninh như các món vịt ninh cả con, chim bồ câu hầm, thịt heo ninh, thịt giò quay, giò hoa, chân heo ninh .v.v.. trong thực đơn yến tiệc cung đình Huế. Ngay cả những món trong bát trân như bàn tay gấu hầm, gân nai hầm... cũng có nguồn gốc từ Cung Đình Trung Hoa được “Huế hóa”. 

Huế là một trung tâm Phật Giáo lớn của Việt Nam. Huế có hơn 400 ngôi chùa lớn nhỏ, 229 Niệm Phật đường và gần hai phần ba dân số Cố Đô là Phật tử. Vì thế mà cơm chay Huế đã đạt đến trình độ điệu nghệ. Bởi vậy, âm thực Phật giáo ảnh hưởng rất sâu đậm đến văn hóa ẩm thực cung đình Huế. Ăn chay là một triết lý sống. Cơm chay vào Huế cùng thời với các chúa Nguyễn. Cách đây gần ba trăm năm chúa Nguyễn Phúc Chu (1691- 1725) và hoàng tộc cũng đã ăn chay. Ở Đàn Nam Giao Huế có một khu nhà gọi là trai cung. Ở đây mỗi lần lễ Tế Nam Giao (sau Tết  Nguyên Đán), Vua phải chay tịnh, dọn sạch mình trước khi tế Trời. Nhiều ông Vua và hoàng tộc Nguyễn đều ăn trai kỳ (nhị trai, tứ trai), có người ăn trường trai. Ngay cả ăn giỗ các vua bây giờ, họ Nguyễn Phúc (hoàng tộc) cũng nấu cỗ chay. Tôi đã được dự một cuộc giỗ vua Duy Tân do họ Nguyễn Phúc nấu ở An Lăng. Cả trăm mâm tiệc chay rất thịnh soạn và sang trọng.

Như vậy, bản chất văn hóa ẩm thực cung đình Huế là sự “kế thừa “ẩm thực cung đình các triều đại trước, tổng hợp và nâng cao văn hóa ẩm thực dân gian vùng Thuận Hóa- Phú Xuân , “Huế hóa” ẩm thực cung đình Trung Hoa mà thành. Chưa có tài liệu nào ghi lại  phát biểu quan niệm của các Vua Nguyễn về ẩm thực. Tuy nhiên, đọc thực đơn ăn uống của các vua Nguyễn xưa, dù chế biến cầu kỳ, đài các, vẫn thể hiện quan niệm của người Huế: Món ngon Huế không chỉ ăn bằng miệng, mà trước hết phải thích nhìn bằng mắt, mũi ngửi thấy thơm, cảm giác thấy thèm, tai nghe những âm thanh quyến rũ, tức là ăn bằng ngũ quan! Hài hòa về màu sắc, hương vị, hài hòa về âm - dương, nóng - lạnh,  hài hòa trong bố cục chén, đũa, bát, dĩa... hài hòa như tự nhiên, thiên nhiên, chính là văn hóa Huế. Với quan niệm “ăn” trước hết là “ ăn bằng mắt”, hiện nay người Huế rất chú ý, rất dụng công trong việc tạo hình, trình bày các món ăn một cách nghệ thuật, tạo nên sự truyền cảm mạnh mẽ. Món gà tần rút xương được nhồi theo hình voi, hình thỏ, hình rùa... rất sống động. Đĩa bánh nậm - chả tôm bày lên bàn tiệc được trang trí thêm nhưng trái ớt, cây hành, cà rốt được cắt tỉa thành những cánh hoa cúc, hoa đồng tiền, những lát chả tôm hình thoi màu hồng ở trên mặt có điểm thêm những nốt trứng vàng rồi xếp thành hình hoa cánh sao, ở giữa là quả cà chua, củ cà rốt tỉa thành đóa hồng, trông rất “ngon mắt”. Chả tôm dọn ra đĩa được xếp thành hình con tôm, bánh phất sau khi chế biến xong bày trên đĩa theo hình rẽ quạt; nem công, chả phụng được chế biến và bày lên đĩa hoặc cắm lên các trái thơm (dứa) khoét rỗng ruột, trong bụng có ngọn nến lung linh, thành hình con chim công..v.v.. Đó cũng là ảnh hưởng của lối nấu ăn cung đình Huế.

Các bữa cơm hay đại yến trong cung đình Huế không phải món nào cũng bát trân cả, mà đều rất dân giã. Con người mời nhau bữa tiệc để gặp rỡ, đàm đạo, đó là triết lý sống của Nho giáo. Nói cách khác triết lý ẩm thực Huế là nghệ thuật làm cho các thực phẩm bình dân hàng ngày trở thành những món ăn nổi tiếng. Tiệc cỗ đại yến hạng nhất hai mâm, mỗi mâm 60 món, vua Minh Mạng tiếp Khâm sứ nhà Thanh năm 1821 như sau: Yến sào 2 bát (dĩa), chả nướng 2 bát, giò nạc 2 bát, các món một bát gồm: Long tu, cá mực, vây cá, hải sâm, bong bóng cá thử, gà tần, gà hấp, gà quay lò cả con, tôm rồng, cua biển, thịt dê, lòng lợn, gà ninh cả con, chân giò hấp, cá tẩm bột rán, vịt ninh cả con, chim bồ câu hầm, thịt heo ninh, thịt giò quay, giò hoa, chân heo ninh, ngỗng quay, thịt gà luộc chặt miếng, xôi màu xanh, xôi gấc..v..v.; 3 loại quả chuối ngự, cam, quýt, 12 loại mứt như mứt bát bửu, mứt nho, mứt hạt dưa, mứt hồng, mứt gừng...; 10 loại bánh như bánh trứng chim, bánh khảo, bánh bột lọc, bánh gai, bánh tráng (bánh đa)..v.v..; 1 thứ chè là chè đậu xanh đánh (2 bát). Trong thực đơn trên, chỉ có món yến sào thuộc về bát trân. Còn tiệc yến đãi các quan triều đình gồm các món thịt gia súc gia cầm ninh, quay, nham, nướng, luộc, các loại nem, chả, cháo, canh, xôi, chè, bánh các loại, không nem công chả phụng gì. Xem ra đa phần các món đều rất dân giã cả. Bà Trương Thị Bích, cháu dâu của vua Minh Mạng, đã soạn cuốn sách nổi tiếng “Thực phổ bách thiên”, cuốn sách dạy nấu 100 món ăn trong gia đình hoàng tộc, trong đó chỉ có 30 món là cao lương mỹ vị như đuôi cừu nướng, bồ câu tìm yến sào, nem công, vi cá.v.v.., còn 70 món là dưa mắm bình dân. Từ quan niệm Nho giáo trọng cách ăn hơn món ăn, ăn uống để tu dưỡng tâm tính, để yêu quý hơn sản phẩm của thiên nhiên và lao động, trọng tính hài hòa, hướng thiện hơn là tẩm bổ hay no bụng, văn hóa ẩm thực cung đình Huế đã định hướng một cách ứng xử, một triết lý sống người Huế: Nghèo mà sang! Ăn uống là “một cách chơi”! Ăn để  dưỡng tâm linh, tâm tính! Nghệ thuật là “sự chơi” ở đời. “Chơi nấu ăn” ở Huế  có lẽ là “sự chơi” hơn cả! Rau giá, quả vả, bắp chuối, mít xanh cũng “chơi” thành món ăn có hạng! Đến muối, vâng, muối thật, người Huế cũng chơi thành bữa “Cơm muối” sang trọng với hàng chục món khác nhau. Triết lý đó làm cho văn hóa ẩm thực Huế rất phù hợp với  trong thời đại công nghiệp hóa, khi con người đang bị đe dọa bởi bệnh béo phì!

Bởi thế mà không phải ông vua triều Nguyễn nào cũng ăn uống cầu kỳ. Tục lệ ngự thiện vua ăn một mình đến đời vua Duy Tân bị bỏ! Nhà vua cho phép chánh phi Mai Thị Vàng, cùng ngồi chung mâm.  Theo nhà Huế học Phan Thuận An, vua Gia Long bữa ăn chỉ ít thịt cá, rau, cơm, bánh trái. Vua Duy Tân là ông vua yêu nước, thuở hàn vi ông sống như thường dân nên muốn nêu tấm gương cần kiệm, đức độ cho triều đình (?)  Ông lên ngôi liền truyền dẹp bỏ 50 món ăn một bữa trong Hoàng cung hàng ngày. Bữa ăn của ông hàng ngày chỉ cơm và cá bống thệ kho tộ kiểu Huế. Đến Bảo Đại, nhiều nghi lễ phức tạp trong bữa ăn của vua bị dẹp bỏ. Ông vua cuối cùng của triều Nguyễn này cùng ngồi ăn cơm với bà Nam Phương Hoàng hậu và 5 hoàng tử, công chúa trong điện Kiến Trung! Các vua Nguyễn hay ăn chay, để giữ gìn bản ngã, nêu gương cho con cháu!

Văn hóa ẩm thực cung đình Huế đã trở thành tài sản của cộng đồng, phục vụ cuộc sống, tôn vinh con người.  Trong các dịp Frstival Huế, hay lễ  hội, du khách  bốn phương lại được vào Đại Nội, ngồi trước Điện Cần Chánh thưởng thức những món ăn quý phái, sang trọng trong những đêm dạ nhạc tiệc vừa cổ kính huyền ảo vừa hiện đại mà dân dã. Đó là bản chất văn hóa ẩm thực cung đình Huế!

N.M
(179-180/01&02-04)

-----------------------
(1) Khâm định Đại nam Hội điển Sự lệ, bản dịch của Viện Sử học - NXB Thuận Hoá, 1993, tập 9, tr.190.
(2) Khâm định Đại nam Hội điển Sự lệ, sđd, tập 11, tr.380.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Tuy chỉ là món ăn dân dã và phổ biến ở Huế, nhưng để chế biến được một tô bánh canh cá tràu ngon đúng vị… món ăn này cũng đòi hỏi người chế biến phải tỉ mẩn và khéo léo. Ở Huế, bánh canh có nhiều cách chế biến khác nhau, như bánh canh nấu tôm, chả cua, bò viên, da heo... Tuy nhiên, đặc sắc và thu hút nhất vẫn là bánh canh cá tràu (người Bắc gọi là cá quả, miền Nam gọi đó là cá lóc).

  • Huế những ngày này mưa dài lê thê. Từ sáng đến tối hầu như mưa không lúc nào ngớt. Đi kèm mưa là cái lạnh rét luồn vào da thịt, làm tím tái những khuôn mặt, bàn tay, đôi chân trần đang tất tả mưu sinh trên đường phố.

  • BẠCH LÊ QUANG

    Nghệ thuật và âm nhạc nói riêng, khi vượt qua lằn ranh của hữu hạn sẽ trở thành những sấm truyền vĩnh hằng, một thứ Kinh mà con người sẽ truyền rao trong cõi nhân sinh đầy biến động.

  • HỒ THỊ HỒNG

    Vua Thiệu Trị từng nói với bề tôi rằng: “Việc dạy học là chính sự trọng đại của triều đình”(1). Nhưng với truyền thống hiếu học của nhân dân ta, từ lâu vấn đề giáo dục đã được xã hội hóa một cách sâu rộng từ trong từng gia đình, dòng họ và toàn xã hội Việt Nam.

  • (SHO). “Đã mê ớt đỏ cay nồng
    Tìm trong vị hến một dòng Hương xanh
    Ruốc thơm, cơm nguội, rau lành
          Mời nhau buổi sáng chân thành món quê”

  • PHẠM THỊ PHƯƠNG THẢO

    Trong chuyến đi Huế dự lễ kỷ niệm ba mươi năm Tạp Chí Sông Hương vừa rồi, tôi được Tổng Biên Tập Hồ Đăng Thanh Ngọc ghé tai thông báo: “Chị cứ đi chơi Sông Hương và thăm quan quanh cố đô Huế những chỗ chưa biết, nhưng đừng nên khám phá hết để còn có cái thôi thúc mình lần sau vô  Huế mà khám phá tiếp  nữa. Nhưng dù đi đâu các anh chị cũng đừng quên đến thăm Gác Trịnh mới khánh thành nhé, hay lắm đấy, dù bận mấy  cũng nên tranh thủ ghé thăm Gác Trịnh dù là vài phút ”.

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌC

    Buổi sáng, tôi ngồi trong Gác Trịnh nhìn ra ngoài cửa sổ. Bên ngoài trời đang se sắt chuẩn bị mưa, sự se sắt nằng nặng.

  • PHẠM HUY THÔNG

    Đầu năm 1986, nghĩ rằng năm nay là một năm có nhiều sự kiện trọng đại diễn ra trong nước ngoài nước, tôi e rằng kỷ niệm mùa hè 200 năm trước của Phú Xuân và của dân tộc, dù không phải là không có tầm vóc, có thể chỉ được chú ý có mức độ, - nếu có được nhắc đến.

  • LÊ HUY ĐOÀN

    Những cửa thành của Kinh thành Huế ghi dấu những sự kiện từ kinh đô thất thủ ngày (23/5 năm Ất Dậu, 1885) sau cuộc chiến không cân sức giữa phe chủ chiến của triều đình Huế với giặc Pháp rồi đến sự tàn phá của thiên tai qua trận lụt 1953 làm 4 cửa thành đổ sập, rồi lại trải mình qua chiến sự Tết Mậu Thân (1968) với bao nhiêu vết hằn của bom đạn.

  • VÕ NGỌC LAN

    Như một mặc định của thời gian khi Huế là kinh đô của cả nước và nơi đây cũng là kinh đô của những chiếc áo dài. Vì vậy con gái Huế được làm quen với tà áo dài rất sớm. Bởi khi mới sinh ra đã thấy mẹ, thấy bà, thấy những người phụ nữ chung quanh khoác trên mình chiếc áo dài.

  • LÊ PHƯƠNG LIÊN 

    …Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
    Những buổi ngày xưa vọng nói về…

                       (Đất nước - Nguyễn Đình Thi)

  • G.S. TRẦN QUỐC VƯỢNG

    Thế kỷ XVI chứng kiến sự vỡ ra của nền quân chủ quan liêu Nho giáo Việt Nam.

  • THANH TÙNG

    Tháng 10/2012, tại khách sạn Rex - thành phố Hồ Chí Minh, chiếc bánh đậu xanh Phượng hoàng vũ khổng lồ của nghệ nhân ẩm thực Tôn Nữ Thị Hà và ái nữ Phan Tôn Tịnh Hải được vinh danh Kỷ lục châu Á - do Hội Kỷ lục châu Á công nhận.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC PHAN

    Ở Huế có nhiều món ngon nổi tiếng như bún bò, cơm hến, dấm nuốt, bánh khoái, bèo, nậm, lọc… điều này đã được nói nhiều. Nhưng còn nhiều chuyện có thể bạn không để ý lắm.

  • NGUYỄN HUY KHUYẾN

    Vườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Khu vườn này đã được đi vào thơ ca của các vua nhà Nguyễn như là một đề tài không thể thiếu.

  • VÕ NGỌC LAN 

    Đã từ lâu danh xưng mai Huế như một mặc định cho loài hoa mai có năm cánh với sắc vàng rực rỡ. Loài hoa mai ấy chỉ sinh trưởng trên đất Cố đô và cũng là đặc sản của vùng sông Hương núi Ngự.

  • LÊ VĂN LÂN

    Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1968 với việc chiếm giữ Huế 26 ngày đêm đã tạo nên bước ngoặt lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, làm sụp đổ chiến lược chiến tranh cục bộ của Mỹ - Ngụy, làm lung lay ý chí xâm lược của kẻ thù, buộc địch phải ngồi vào bàn đàm phán Paris.

  • NGUYỄN HỒNG TRÂN

    Câu chuyện này do nhà thơ Bích Hoàng (tức Hoàng Thị Bích Dư - cựu nữ sinh trườngĐồng Khánh - Huế) kể lại cho tôi nghe trực tiếp vào đầu năm 2012 tại nhà riêng của cô ở 170 phố Cầu Giấy, Hà Nội.

  • TRẦN BẠCH ĐẰNG

    Mỗi địa danh của đất nước ta chứa mãnh lực riêng rung động lòng người, từ những khía cạnh rất khác nhau. Có lẽ lịch sử và thiên nhiên vốn ghét bệnh "cào bằng", bệnh "tôn ti đẳng cấp" cho nên lưu dấu vết không theo một công thức nào cả. Quy luật khách quan ấy làm phong phú thêm đời sống nội tâm của dân tộc ta.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN

    Đề cập đến sự nghiệp cầm bút của Thượng Chi Phạm Quỳnh cần phải có một cái viện nghiên cứu làm việc trong nhiều năm mới hiểu hết được. Do hoàn cảnh lịch sử, tôi chưa bao giờ dám nghĩ đến mình có thể tìm hiểu một khía cạnh nào đó trong sự nghiệp to lớn của ông.