Văn Công Toàn - Ru tình giữa cõi mênh mông

15:34 10/06/2008
Giới thiệu tập thơ đầu tiên của anh Khúc ru tình nhà thơ Ngô Minh viết: “Toàn từng làm thơ đăng báo từ trước năm 1975. Hơn 20 năm sau Toàn mới in tập thơ đầu tay là cẩn trọng và trân trọng thơ lắm lắm”.

Thơ của Văn Công Toàn được nhiều người thuộc nằm lòng bởi cái chất Huế “rặt”, nhỏ nhẹ mà mênh mang tình như một buổi chiều thả hồn trôi trên mọi ngã đường theo những cơn mưa xứ Huế. Hay nói như nhà thơ Hồ Thế Hà: “Tôi tìm thấy trong Khúc ru tình những bài thơ đằm thắm buồn, da diết nhớ, bất chợt sương mù và mong manh tình sử. Chúng vực dậy từ sâu thẳm cội lòng, từ lặng im cỏ lá và run rẩy mưa đêm một hồng hào ngọn lửa của chính người thơ. Vì vậy, thơ Văn Công Toàn vừa chân tình, dại ngộ vừa độ tượng, tin yêu…”.
Văn Công Toàn hiện là Phó giám đốc Trung tâm THVN tại Huế. Là nhà quản lý, nhà báo, nhà thơ, liệu 3 con người ấy có chút gì đấy chông chênh khi tồn tại trong cùng một con người? Và Văn Công Toàn đã trả lời câu hỏi ấy khi mọi việc anh làm đều “ra hồn ra vía” cả.
Thơ Văn Công Toàn không kén người đọc, lại càng không triết lý, lên gân chữ nghĩa. Thế nhưng, đọc thơ anh phải thư thả, ngẫm suy để cảm nhận. Ẩn đằng sau mỗi con chữ, mỗi nhịp điệu thơ là cái tình đằm thắm, nồng nàn mà anh đã gửi gắm bằng cả tình yêu với cuộc sống, con người. Nếu ai hiểu Toàn, hiểu cái góc khuất bí ẩn sâu kín tận đáy tim anh sẽ thấy trong những vần thơ ấy mênh mang tình và ăm ắp yêu thương. Là người con của đất Cố đô cổ kính, thơ anh dường như dành riêng cho Huế, bồng bềnh, lãng mạn và mang gương mặt u uẩn buồn của một cô gái đẹp, một nỗi buồn mong manh và trong suốt như khói, như sương:
Bầu trời Huế những chiều giáp Tết
Như khuôn mặt cô gái đẹp chợt buồn
Vì tình yêu chưa trọn vẹn
Khó tìm thấy nụ cười tươi
Thường gặp đôi mắt ướt
                                 (Huế chiều giáp Tết)
Cũng viết về tình yêu, đề tài muôn thuở của thơ ca, nhưng tình yêu của anh đẹp, bãng lãng chân quê và trong vắt như một ngôi sao vừa mọc. Thể thơ lục bát mộc mạc với nhịp thơ chầm chậm, thong dong như một lời tỏ tình thiết tha đến nao lòng: 
Em về bên nớ thì xa
Con đường cũng nhớ thiết tha dấu người
Bên ni đồng vọng nhịp đời
Sao em chưa nói một lời cùng anh?
                                           (Tình thơ 1)
Đọc thơ Văn Công Toàn, có khi ta bắt gặp nhịp điệu ca dao rất gần gũi:
Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt
Thể thơ 4 chữ, vừa gọn gàng, dứt khoát lại vừa chân chất, đằm thắm đã gửi đến những người đang yêu một thông điệp ngập tràn yêu thương. Ở trong ấy, ta cảm nhận được mùi rơm rạ nồng nàn, ấm áp và một tình yêu chân quê mà tình tứ, phiêu diêu như cổ tích:
Đôi lứa thương nhau
Bắc cầu trăm nhịp
Cái nhớ thương ai
Nối bờ xa cách
Nghèo khó thương nhau
Thì vượt gian nan
Cây thương hóa trái
Rụng lá úa vàng
                       (Khúc thương)
Văn Công Toàn như đi lạc trong tình yêu, trong nỗi cô đơn, bởi tình yêu, suy cho cùng cũng chỉ là một cuộc chơi khắc nghiệt. Tình yêu vẽ lối cho trái tim con người trong hành trình kiếm tìm hạnh phúc nhưng tình yêu cũng khép mở những bí ẩn, như một trò chơi. Có khi nó hiện hữu trước mắt, chỉ cần xoè bàn tay là nắm được, là cảm nhận được. Nhưng cũng có khi, nó chỉ là một ảo ảnh đầy sương mù giăng mắc:
Em xa rồi anh ngồi buồn tênh
Đàn ai buông lơi tiếng tơ mành
Trời không mưa mà trời rơi hạt
Trắng xóa sương mờ, em trắng anh…
                                              (Khúc ru tình)
Văn Công Toàn để cho tình yêu xoáy trôi cuộc đời mình. Như một dòng chảy mềm mại, ngay cả lúc đắm chìm trong nỗi cô đơn, tình yêu trong thơ anh vẫn như một tiếng thở dài nhẹ nhàng đầy sương khói, một khúc ru tình mênh mang giữa cõi trần:
Lời ru kín mặt đất bằng
Để tôi ru với ánh trăng bây giờ
Phải đâu khúc hát vu vơ
Dưới trăng ai dễ hững hờ được sao
                                     (Lời ru ánh trắng)
Mới đọc qua, cứ ngỡ, thơ Văn Công Toàn chỉ mang một nỗi buồn lãng mạn, buồn vô dưng, vô cớ, như chỉ để vỗ về những trái tim bị tổn thương vì tình yêu. Thế nhưng, càng ngẫm càng thấm thía nỗi cô đơn sau những câu chữ mềm mại ấy. Cuối cùng cho một tình yêu là gì? Là đối diện với nỗi trống trải, cô đơn; là những tháng ngày đầy nhớ thương, tiếc nuối; là một cuộc sống quay quắt tìm tình yêu, hạnh phúc để rồi tất cả vỡ vụn như nghìn ánh sao rơi:
Đêm kia
mờ ánh trăng soi
Trăng em
Ai rót vào tôi giọt buồn
Đêm qua
nhạt ánh trăng suông
Trăng em
rụng vỡ giữa vườn sao rơi…
                                 (Trăng và em)
A.Đơ Muytxe từng nói: “Hãy gõ vào tim anh, thiên tài là ở nơi đó”. Với thơ, Văn Công Toàn đã gõ vào trái tim mình dẫu anh không mang tham vọng mình sẽ là một thiên tài. Rất đơn giản, anh chỉ muốn thơ mình là một khúc ru tình giữa cõi nhân gian đầy muộn phiền và lo toan:
Ru nghìn thu thoáng mong manh
Khúc ru ngày mới độc hành thi ca.
                                    (Khúc ru ngày mới)

LAM THI
(nguồn: TCSH số 232 - 06 - 2008)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • BÍCH PHƯỢNG thực hiệnLTS: Trong dịp vào Huế thực hiện một số phim trong chương trình “Người của công chúng” (Đài Truyền hình Việt Nam), nhà báo Bích Phượng đã có dịp tìm hiểu tác phẩm, gặp gỡ trò chuyện với nhà văn Nguyễn Khắc Phê tại ngôi nhà vuờn xinh đẹp của ông trên đường Xuân Diệu. Ông đã trả lời một cách cởi mở và thẳng thắn những vấn đề đặt ra.

  • NGUYỄN PHÚC VĨNH BATrong cuốn “Hồ sơ văn hoá Mỹ”, nhà nghiên cứu Hữu Ngọc có giới thiệu một số nhà thơ cổ điển Mỹ như Walt Whitman, Edgar A. Poe, Henri W. Longfellow… Về Longfellow, ông Hữu Ngọc viết:“Nếu không đòi hỏi tâm lí và tư duy sâu sắc thì có thể tìm ở thơ Longfellow sự trong sáng, giản dị, cảm xúc nhẹ nhàng, bâng khuâng, hình ảnh duyên dáng và âm điệu du dương. Ông làm thơ về lịch sử và truyền thuyết, đất nước và thiên nhiên, ông ca ngợi tình thương, lòng tốt, chịu đựng cuộc đời.

  • LÊ HUỲNH LÂMTừ “Vọng sông quê” đến “Mang” của Nhà xuất bản Trẻ, rồi “Gửi thiên thần” của Nhà xuất bản CAND và bây giờ là “Đồng hồ một kim” của Nhà xuất bản Văn Học” được gửi đến bạn đọc, Phan Trung Thành đã khẳng định được gương mặt thơ của thế hệ 7.X. Ở đây, số lượng tác phẩm không định hình nên một gương mặt thơ, mà chính những câu chữ đã vẽ lên chân dung một nhà thơ.

  • TIỂU VĂNGiữa tháng 11 năm 2008, tôi được dự một buổi hội thảo nói chuyện chuyên đề về sách tại Zen Café (phố Ngọc Hà). Đây là buổi nói chuyện của tác giả - dịch giả Lê Thị Hiệu, với bút danh thường gọi là Hiệu Constant, giới thiệu về tác phẩm đầu tay của chị - tiểu thuyết Côn trùng. Buổi nói chuyện nằm trong chương trình “Tôn vinh Văn hóa Đọc” do Công ty Truyền thông Hà Thế khởi xướng và tổ  chức.

  • HÀ KHÁNH LINHHồng Nhu truyện ngắn, Hồng Nhu thơ… Lần đầu tiên nhìn thấy Hồng Nhu xuất hiện tiểu thuyết tôi thực lòng rất mừng. Tuy nhiên đọc gần hết hai chương đầu nỗi lo cứ cồm cộm lên trong tâm thức nhưng chính gần cuối chương II cái chất tiểu thuyết mới bắt đầu hé lộ ra, để rồi từ đó lôi cuốn người đọc cho đến hết truyện.

  • LÊ QUANG TƯCông trình Văn học Việt Nam thế kỷ X-XIX (những vấn đề lý luận và lịch sử)(1) được biên soạn bởi Trần Ngọc Vương (chủ biên), Trần Nho Thìn, Nguyễn Văn Thịnh, Trần Nghĩa, Đoàn Lê Giang, Kiều Thu Hoạch, Cao Tự Thanh..., do nhà xuất bản Giáo dục in năm 2007, dày 912 trang.

  • LÝ HOÀI XUÂN(Nhân đọc tập thơ “Mẹ!” của Văn Lợi – NXB Thuận Hoá, 2006)

  • TRẦN HUYỀN SÂMNhư con thú hoang ôm vết thương lòng đi tìm nơi trú ẩn, gương mặt người thiếu phụ mang nỗi buồn tiền kiếp - tự ngàn xưa: Người thiếu phụ có đôi mắt buồnĐi lang thang trong chiều mùa hạNỗi cô đơn lây sang cả đá...

  • MAI VĂN HOANNgười đời thì lập ngôn còn Nhụy Nguyên thì “lập thiền”. Thú thực tôi chưa hiểu hết dụng ý của Nhụy Nguyên khi đặt tên cho tập thơ đầu tay của mình là Lập thiền. Bản thân từ Hán Việt vốn ẩn chứa nhiều tầng nghĩa.

  • BỬU NAMI. Văn học Mêhicô ở thế kỷ XX, có lẽ được xem như một nền văn học năng động và sáng tạo nhất Châu Mỹ La tinh. Táo bạo trong những tìm tòi mới, linh hoạt uyển chuyển trong cách diễn tả, đa dạng phong phú trong cách sử dụng các cấp độ ngôn ngữ, sáng suốt trong cách chọn lựa đề tài, hình thức, ngôn ngữ: tiểu thuyết và truyện ngắn ở Mêhicô tạo được những không gian sáng tạo và đổi mới một cách tự do.

  • NGUYỄN TÝ51 bài thơ cùng 8 ca khúc được phổ thơ của Trần Hữu Lục vỏn vẹn 120 trang qua tập thơ “Vạn Xuân” (*) mới nhất của anh, người đọc đồng cảm cùng tác giả- một người con xứ Huế tha phương.

  • NGÔ MINHNhà xuất bản Văn nghệ vừa ấn hành tập ký “Phùng Quán- Ba phút sự thật”, tập hợp mười lăm bài viết, ký thấm đẫm chất nhân văn rất của cố nhà thơ nổi tiếng Phùng Quán.

  • NGUYỄN ĐÔNG HIẾUTrong cuộc đời làm xuất bản của mình, Phùng Quán là một nhà văn đã để lại cho tôi những ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc, khó quên.

  • PHẠM PHÚ PHONG Tập nhật ký Tây tiến viễn chinh (do Đặng Vương Hưng biên soạn và giới thiệu, Phạm Tiến Duật viết lời bạt, Nxb Hội Nhà văn, 2005) của liệt sĩ Trần Duy Chiến, bắt đầu viết từ ngày 7.10.1978, khi anh mới nhập ngũ, đến ngày 25.6.1980, trước khi anh hy sinh gần một tháng.

  • BỬU NAM giới thiệu1. Cuốn tiểu thuyết best - seller “Hồi ức của một Geisha” của nhà văn Arthur Golden vừa được dựng thành phim. Nhà văn Arthur Golden đã dành cả 40 năm cuộc đời mình tìm tư liệu về cuộc sống của những nàng Geisha ở Nhật Bản, để sáng tạo nên một cuốn tiểu thuyết Best - Seller giữ vị trí được bạn đọc thế giới yêu thích lâu dài trên danh mục những tiểu thuyết bán chạy nhất do báo New York Times bình chọn.

  • HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc tập thơ Lệ Thuỷ mút mùa của Ngô Minh)Nói đến Ngô Minh là nói đến thế - giới - cát. Cát trong suy nghĩ của Ngô Minh như thứ ngôn ngữ minh triết về đời sống con người. Là vật chất, nhưng không giản đơn như mọi thứ vật chất. Cát có thể nóng như lửa, lại mềm mại dịu êm dưới chân người. Li ti từng hạt nhỏ, vậy mà bên nhau cát xây nên luỹ nên thành án ngữ dọc biển bờ Tổ quốc. Cát hiền lành trong sạch, khi giận giữ có thể biến thành những cơn bão khủng khiếp.

  • BÙI ĐỨC VINH(Nhân đọc tập thơ “RỖNG NGỰC” của Phan Huyền Thư, NXB Văn học 2005)

  • PHAN THUẬN AN"Khóc Bằng phi" hay "Khóc Thị Bằng" là một bài thơ nổi tiếng xưa nay, nhưng tác giả của nó là ai thì chưa được xác minh một cách cụ thể. Người ta thường cho rằng bài thơ trữ tình này là do vua Tự Đức (1848-1883) làm ra để thương tiếc một bà cung phi tên là Thị Bằng còn rất trẻ đẹp nhưng chết sớm.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong văn học Nga thế kỷ XX, Aleksandr Solzhenitsyn là một trong những nhà văn lớn, nổi tiếng có nhiều đóng góp cho nền văn học Nga trên nhiều phương diện, một người suốt đời tận tụy và kiên trì đấu tranh cho sự chiến thắng của nghệ thuật, của sự thật đối với những cái xấu, cái ác. Nhưng ông cũng là một nhà văn có cuộc đời đầy thăng trầm, bất hạnh và phức tạp.

  • BÙI LINH CHIAnnemarie Selinko (1914-1986) là một nhà báo, nhà tiểu thuyết gặt hái được một số thành công trong sự nghiệp tại Tổ quốc của mình là nước Áo. Trong những tháng ngày chạy nạn 1943, bà đã cùng chồng đến Thụy Điển, đã chứng kiến những làn sóng người tị nạn phải rời bỏ quê hương trước ý chí ghê gớm của kẻ độc tài khát máu Himler gây ra.