Văn chương đồng tính: Từ bóng tối ra ánh sáng

09:48 19/09/2011
HOÀNG TÙNG Văn học đồng tính - LGBT (lesbian, gay, bisexual, transgender) literature đã từng một thời bị coi là đề tài cấm kỵ trên phạm vi toàn cầu. Tuy nhiên, cùng với những cuộc đấu tranh về quyền con người, đấu tranh về bình đẳng giới, sự thừa nhận của xã hội đối với giới tính thứ ba, đó cũng là lúc dòng văn học dành cho người đồng tính bước từ bóng tối ra ánh sáng…
[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]


1. Nhìn lại hiện tượng đồng tính trong văn học

Dù thích hay không thích, ủng hộ hay phản đối, người ta cũng không thể phủ nhận một thực tế là xã hội từ xưa đến nay luôn có những con người đồng tính. Đồng thời với điều đó, việc những người đồng tính chịu sự kỳ thị nhất định cũng là một thực tế khác. Họ phải tự ẩn mình, giấu đi danh tính thực sự của mình để hòa chung vào cuộc sống thường nhật. Tuy nhiên, dấu ấn về sự hiện diện của người đồng tính vẫn thể hiện đâu đó qua những tác phẩm văn chương.

Khá nhiều huyền thoại trên thế giới đã từng đề cập đến chuyện đồng tính hoặc quan hệ của những người cùng giới. Đây được coi là những biểu hiện của hiện tượng đồng tính trong xã hội cổ đại. Thần thoại Hy Lạp đã từng đề cập đến nhân vật Thần gió Tây Zephyrus. Mặc dù đã có nhiều vợ và nhiều con nhưng Zephyrus vẫn say mê chàng hoàng tử Hyacinth người Spartan. Tuy nhiên, Hyacinth lại tôn thờ thần Apollo. Quá tức giận và ghen tuông, Zephyrus đã dùng đĩa ném vỡ đầu Hyacinth. Khi chết đi, máu của Hyacinth biến thành cây hoa dạ hương. Trong tác phẩm Lịch sử có thật - True History của nhà văn người Hy Lạp Lucian (120-185) được coi là tác phẩm đầu tiên đề cập đến chuyện tình yêu của những người nam đồng tính. Cốt truyện kể về nhân vật chính, bị cơn bão cuốn lên mặt trăng và chứng kiến cuộc chiến tranh giữa cư dân mặt trăng và cư dân mặt trời. Nhân vật chính (nam giới) sau những chiến công trên chiến trường đã được vua mặt trăng chọn làm con rể bằng cách cho lấy… con trai của nhà vua.

Tuy nhiên, trong suốt thời kỳ Trung Cổ, đồng tính bị coi là chủ đề cấm kỵ nghiêm ngặt. Mãi sau này, hiện tượng đồng tính mới xuất hiện trở lại một cách dè dặt trong các tác phẩm văn học. Carmilla (Sheridan Le Fanu) là tác phẩm đề cập đến quan hệ đồng tính nữ đầu tiên, thể hiện ở hình tượng những cô gái bị biến thành ma cà rồng và có hành vi sex với người đồng giới. Trong khi đó, tiểu thuyết Bưc tranh của Dorian Gray - The Picture of Dorian Gray của nhà văn danh tiếng Oscar Wilde đã khiến độc giả đương thời shock nặng với những cảnh quan hệ đồng tính dày đặc. Tiểu thuyết Tiếng trống khác - A Different Drum (Chris Davidson) cũng kể về tình yêu phát sinh giữa 2 chàng lính Yankee và lính Liên Bang ở 2 chiến tuyến trong cuộc nội chiến Mỹ. 

Những tác phẩm đồng tính có thể gây ra vô số rắc rối cho tác giả. Nhà văn Radclyffe Hall, người viết cuốn sách đồng tính nữ đầu tiên có tên Giếng cô đơn - The Well of Loneliness (1928). Sau đó, ông đã phải hầu tòa vì đã viết nên những hành động trái tự nhiên giữa nữ giới - unnatural practices between women. Cuốn sách bị cấm tại Anh hàng thập kỷ sau đó. Trong khi ở Mỹ, cuốn sách thoát khỏi kiểm duyệt, trở thành cuốn sách dẫn đầu cho làn sóng viết về đồng tính nữ sau này.

Cho đến giữa thế kỷ 20, đề tài đồng tính vẫn chỉ được đề cập đến một các khá dè dặt. Tuy nhiên, không ít tác giả cũng đã bắt đầu có những tác phẩm chất lượng về đề tài này. Tác phẩm Doanh trại Nữ - Women’s Barracks (Tereska Torres) lấy đề tài là một nhóm nữ binh sĩ có quan hệ trên mức tình cảm với nhau tại London trong Thế chiến II. Cuốn sách đã được bán ra hơn 4 triệu bản, trở thành cuốn sách bán chạy nhất năm 1952 tại Anh. Tuy nhận khá nhiều lời chỉ trích nhưng chất lượng cuốn sách đã khiến giới phê bình không thể phủ nhận giá trị của tác phẩm. Nhà phê bình Donna Allegra đã phát biểu: “Tại sao phải ngại ngùng khi đó là một phần hiện thực xã hội?”.

Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của những hoạt động vì nhân quyền, người đồng tính dần được sự chấp nhận mạnh mẽ hơn từ xã hội và dư luận. Cùng với đó, văn học với đề tài đồng tính đã trở thành một trào lưu khá mạnh mẽ, đồng thời nó cũng gây ra không ít tranh cãi…

2. Sự bùng phát của đề tài đồng tính

Theo tác giả Kilian Meloy trong bài viết Ảnh hưởng của những nhân vật đồng tính trong Văn học - Influential Gay Characters in Literature thì: “Sự phát triển của đề tài đồng tính trong văn học nghệ thuật liên quan mật thiết đến những phong trào đấu tranh vì quyền con người, trong số đó có việc đấu tranh đòi bình đẳng cho người đồng tính. Những tác phẩm văn chương đồng tính trên một góc độ nào đó đã thu hút được sự chú ý của dư luận, tạo nên cái nhìn cảm thông hơn của xã hội với giới tính thứ ba”.

Nửa đầu của thế kỷ 20, rất ít NXB dám xuất bản những tiểu thuyết đồng tính. Chính vì thế, thể loại văn học đồng tính đã tìm các ẩn mình ở dòng văn học như văn học viễn tưởng. Nhà phê bình văn học Darko Suvin viết: “Văn học viễn tưởng có thể thoải mái chỉ ra những mối quan hệ đồng tính vì nó đề cập đến những thế giới khác với nơi ta đang sống, buộc người đọc phải theo luật chơi của tác giả”. Nhiều hình tượng đồng tính hoặc hàm ý đồng tính đã được xây dựng.

Quan hệ đồng tính manh nha xuất hiện trong một số truyện tranh của các công ty truyện tranh danh tiếng như Marvel Comics hay DC Comics. Thế giới truyện tranh Nhật thậm chí còn có dòng truyện tranh đồng tính nam - yaoi truyện tranh đồng tính nữ - yuri. Nhà phê bình văn học Nicola Griffith nhận định: “Hình tượng những dị nhân phải che giấu thân phận của mình chính là nỗi niềm của những người đồng tính”. Tác phẩm truyện tranh Sự quyến rũ của Trinh nguyên - Seduction of the Innocent của Fredric Wertham được coi là khuyến khích quan hệ đồng giới. Nhân vật Sao phương bắc - Northstar thuộc nhóm anh hùng Alpha Flight là nhân vật siêu anh hùng đồng tính đầu tiên của hãng Marvel Comics. Hãng truyện tranh DC Comics cho nhân vật siêu anh hùng trong nhóm The Authority là Midnighter và Apollo cưới nhau, nhận 1 đứa bé gái làm con.

Chính vì sự phát triển của những mối quan hệ đồng tính xuất hiện trong một số truyện tranh, Bộ Văn hóa Mỹ đã phải cho ra đời Bộ Quy tắc Tài liệu dành cho Truyện tranh - Comics Code Authority (CCA) trong đó có giới hạn khá nghiêm ngặt đối với chủ đề đồng tính, ngăn cản việc hàm ý quan hệ đồng tính ẩn trong nội dung truyện. Tuy nhiên, bộ luật này chỉ áp dụng được với những tác phẩm được xuất bản qua con đường chính thống. Những truyện tranh không xuất xứ - underground comics sử dụng hình tượng của những người nổi tiếng, chính trị gia và vai người đồng tính nhằm thu hút độc giả trong giới đồng tính. Điều này gây ra không ít phiền toái cho thể tài đồng tính trong văn học.

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]Bìa cuốn “Annie trong tâm trí tôi” của Nancy Garden
Tuy nhiên, với sự phát triển của các hoạt động đấu tranh vì con người, từ những năm 80 trở lại đây, văn học đồng tính đã nhận được sự thừa nhận như là một dòng văn học chủ lưu - mainstream, nghĩa là đây là một chủ đề có thể khai thác với sự cấm kỵ ngày càng giới hạn. Sự phát triển đó còn lan ra những ngành nghệ thuật khác như điện ảnh, kịch nghệ khiến sự chấp nhận của xã hội ngày càng lớn hơn. Tác phẩm Annie trong tâm trí tôi - Annie on My Mind (Nancy Garden) xuất bản năm 1982 kể về 2 cô gái trung học yêu nhau được chào đón nồng nhiệt. Năm 2000, Tập san Thư viện trường học - School Library Journal đã coi Annie trong tâm trí tôi nằm trong top 100 cuốn sách định hình văn học thế kỷ 20.

Sự phát triển của thể tài đồng tính trong văn học đã tạo thành những phân nhánh của chủ đề này như văn học lãng mạn đồng tính, văn học kinh dị đồng tính v.v... Tuy nhiên, những tác phẩm văn học đồng tính cũng chịu nhiều sự chỉ trích do không ít trong số này được xếp vào thể loại rẻ tiền, câu khách, rất gần với văn hóa phẩm khiêu dâm dành cho người đồng tính.

3. Đồng tính: Đề tài “nóng”?

Sự phát triển của văn học với đề tài đồng tính thu hút được sự chú ý của khá nhiều độc giả. Nhiều nhà văn từ đó cũng lấy đề tài đồng tính để sáng tác. GS.Stephanie Foote, Đại học  Illinois phát biểu: “Những tác phẩm đồng giới có những giá trị nhất định bởi chúng có độc giả riêng. Chúng cũng giúp xã hội thay đổi nhân thức về người đồng tính. Đồng thời, nó cũng là thông điệp gửi đến những người đồng tính: các bạn không cô đơn!”

Có thể kể đến tác phẩm John Kỳ lạ - Odd John (Olaf Stapledon) kể về một chàng trai là người đột biến, say mê một người đàn ông lớn tuổi hơn và người đàn ông kia cũng biết tình cảm của John nhưng không dám đáp lại vì những ràng buộc của xã hội đương thời. Tác phẩm này đã gây được tiếng vang, được nhiều tạp chí văn học “đứng đắn” giới thiệu. Truyện ngắn Thế giới biến mất - The World Well Lost (Sturgeon) mô tả hai người ngoài hành tinh đồng giới với tình yêu cuồng nhiệt dành cho nhau khiến mọi người trên trái đất vô cùng cảm động. Những mô tả về tình yêu tinh tế trong câu truyện khiến tạp chí Universe - tạp chí đăng tải truyện ngắn này - bình luận: “Đây là một truyện ngắn dũng cảm nhất - most daring story”. Truyện cũng được coi là một cột mốc của đề tài đồng tính trong văn học.

Năm 1964, cuốn sách Sa mạc trái tim - Desert of the Heart của Jane Rule và Bà Stevens nghe tiếng hát của những nàng tiên cá - Mrs. Stevens Hears the Mermaids Singing là 2 cuốn sách về đề tài đồng tính đầu tiên được giới xuất bản chính thống xuất bản ở dạng bìa cứng và thu được thành công lớn khi bán ra công chúng. Cùng với đó, việc Thượng viện Mỹ cho phép những tác phẩm khiêu dâm được phép xuất bản cũng là bước tiến để văn học đồng tính phát triển.

Phong trào Làn sóng mới - New Wave lan rộng khắp nơi trên thế giới với tư tưởng phá cách về sáng tạo nghệ thuật trong những năm 1980 cũng giúp văn học với đề tài đồng tính được nhiều hơn các tạp chí ấn hành. Đồng thời, đây cũng là thời kỳ nhiều nhà văn chuyên viết về đề tài này xuất hiện như Joanna Russ, Thomas M. Disch and Samuel R. Delany. Tác phẩm Nữ đàn ông - The Female Man (Joanna Russ) được độc giả đón nhận nồng nhiệt, đưa vị trí của Russ lên hàng “Bà hoàng của văn học đồng tính”. Lửa mùa xuân - Spring Fire (Marijane Meaker) kể về hai cô gái trung học yêu nhau cũng là một tác phẩm hết sức thành công với gần 2 triệu bản bán ra công chúng. Không những viết về đề tài đồng tính, nhiều nhà văn cũng bắt đầu thừa nhận việc mình là người đồng tính. Samuel R. Delany là tác giả viết truyện về đề tài đồng tính, đồng thời cũng là một trong những tác giả đầu tiên thừa nhận mình là người đồng tính. Melissa Scott, một nhà văn đồng tính nữ đã phát biểu: “Tôi là người đồng tính. Tôi viết về đề tài đồng tính bởi nó phản ánh việc xã hội đối xử ra sao đối với những con người khác biệt với số đông”.

Khá nhiều giải thưởng được lập ra dành cho văn học đồng tính như Hội nghị Tiểu thuyết dành cho Thiên hà Đồng tính - Gaylaxicon science fiction convention với giải thưởng Gaylactic Spectrum Awards, Giải thưởng văn chương Lambda - Lambda Literary Awards, Giải Văn chương Xã hội Vương miện Vàng - Golden Crown Literary Society Awards v.v… Một số tạp chí chuyên dành riêng cho người đồng tính như Guild Press, Greenleaf Classics v.v… cũng được xuất bản. Những tác giả như Nicola Griffith, David Gerrold, Keith Hartman, Laurie J. Marks và Stephen Pagel đã thành danh nhờ đề tài đồng tính, được giải Thành tựu trọn đời - Lifetime Achievement và được vinh danh vào Ngôi nhà Danh tiếng - Hall of Fame của giải thưởng Gaylatic Spectrum Awards.

4. Văn học đồng tính tại Việt Nam

Tại Việt Nam, văn học đồng tính xuất hiện khá muộn so với thế giới. Thời kỳ trước, tác phẩm hiếm hoi ám chỉ đồng tính có lẽ là bài thơ Tình trai của Xuân Diệu. Tuy nhiên, trong khoảng mười lăm năm trở lại đây, đề tài đồng tính đã bắt đầu được khai thác một cách khá mạnh dạn. Nhiều tác giả đã chọn đề tài gai góc này để thử bút. Không ít người đã thành công và gây được những tiếng vang nhất định. Có thể kể ra ở đây những tác phẩm như Một thế giới không có đàn bà, Les - Vòng tay không đàn ông (Bùi Anh Tấn), Song song (Vũ Đình Giang), Nháp (Nguyễn Đình Tú), Thành phố không lạc loài (Phạm Thành Trung)…

Việc đề tài đồng tính được các nhà văn khai thác thể hiện sự biến chuyển lớn. Thứ nhất, đồng tính đã được coi là một hiện tượng tự nhiên, một thực thể tồn tại trong xã hội. Một chức năng quan trọng của văn học là phản ánh cuộc sống, vậy nên đề tài đồng tính được đề cập đến trong tác phẩm văn chương âu cũng là điều hết sức bình thường. Thứ hai, không thể phủ nhận sự phát triển mạnh mẽ của đề tài đồng tính của văn học Việt Nam phát triển cùng với sự mở rộng giao lưu với văn học thế giới ở thời điểm sự đấu tranh cho quyền tự do, bình đẳng cho giới tính thứ ba được phổ rộng ở cấp độ toàn cầu.

Nhưng việc chỉ xoáy vào chuyện đồng tính để mong sự “lạ” sẽ gánh đỡ chất lượng tác phẩm sẽ dẫn đến sai lầm. Xét cho cùng, tác phẩm về đồng tính cũng như tác phẩm về những đề tài khác, để có thể trở thành tác phẩm hay, cần phải có sự nỗ lực và tài năng của người viết. Đồng tính có thể là đề tài ăn khách nhưng sức mạnh trường tồn vẫn là nội dung, chất lượng của tác phẩm văn học.


Khi xã hội càng mở rộng hơn với người đồng tính thì những chi tiết đồng tính càng xuất hiện nhiều hơn trong văn học. Nhà văn Rowling cũng từng gây xao động dư luân khi tuyên bố nhân vật thầy hiệu trưởng Dumbledore đĩnh đạc và thông minh thực ra là một người đồng tính. Dĩ nhiên, đó cũng có thể chỉ là một chiêu câu khách của người sáng tạo ra Harry Potter. Điều này cũng khiến nhà phê bình Samuel Delany đã nhận định: “Chủ đề đồng tính trong văn chương phần nào thể hiện sự tự do hóa các đề tài, thu hẹp dần những khoảng đen cấm kỵ trong văn chương. Nhưng một phần nào đó, nó cũng đã trở thành một đề tài thời thượng, một thứ mốt của văn chương hiện đại”.

H.T
(271/09-11)







Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H

  • TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.

  • TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...

  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.