Văn chương - những cuộc truy tìm hay là sự tự nhận thức của phê bình văn học

14:41 16/10/2008
HỒ THẾ HÀ Thật lâu, mới được đọc tập nghiên cứu - phê bình văn học hay và thú vị. Hay và thú vị vì nó làm thỏa mãn nhận thức của người đọc về những vấn đề văn chương, học thuật. Đó là tập Văn chương - Những cuộc truy tìm(1) của Đỗ Ngọc Yên.

Như tên gọi của tập sách, và căn cứ ở 53 bài viết công bố trong và ngoài nước với các chủ điểm đa dạng qua “gần hai thập kỷ cầm bút” của tác giả gồm 500 trang in, quả là tập sách đã trải dài và làm hiện lên những vấn đề và dư luận đáng quan tâm của nền văn học nước nhà bằng một ý hướng tính sáng rõ: truy tìm những giá trị văn chương đích thực qua tranh luận, phê bình dân chủ và khoa học.
Nếu xem phê bình văn học là “mỹ học vận động”, là “sự tự nhận thức của thời đại” như Bélinski đã quan niệm, thì tập sách của Đỗ Ngọc Yên đã là một phần bản chất của yêu cầu trên. Có thể thấy tác giả luôn quan tâm đến những vấn đề trọng tâm của văn học theo hướng mở và đa dạng: vấn đề văn hóa với văn học, văn học và dư luận, những sự kiện văn chương nổi bật, phê bình tác giả và tác phẩm, phê bình và đối thoại, vấn đề đặc trưng ngôn từ - thể loại, vấn đề bản lĩnh của người cầm bút… Bấy nhiêu vấn đề, bấy nhiêu tâm huyết và đam mê đã làm cho người đọc cùng theo dõi và đồng tình, thực sự Đỗ Ngọc Yên đã làm được chiếc cầu văn chương giữa văn học với người tiếp nhận, góp phần định hướng thẩm mĩ - theo cách riêng của mình - đến người đọc.
Đó là thành công tổng thể của tác phẩm.

Tôi đặc biệt quan tâm đến chùm bài viết liên quan đến vấn đề văn hóa ở đầu sách. Bởi vì, theo cách tiếp nhận hiện nay, văn hóa đã góp phần mở ra những nội hàm mới mẻ trong việc chỉ ra những mặt bản chất của đời sống. Bài Tiếp cận văn hóa thực sự đã đặt nền tảng lý luận cho việc tiếp cận hệ thống vấn đề văn hóa: Đó là tiếp cận văn hóa theo hướng quy nạp, tiếp cận bằng cách chia văn hóa thành hai phạm vi vật chất và tinh thần, tiếp cận theo hướng phân chia thành văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể; đặc biệt là tiếp cận theo hướng phân chia văn hóa thành các bộ phận cấu thành bản thân văn hóa…” Và tác giả đi đến kết luận “văn hóa học nhất thiết phải coi giá trị nhân văn như là hạt nhân cơ bản và là mục tiêu thiết yếu trong quá trình nghiên cứu” và cần phải bổ sung thêm hướng tiếp cận xem xét các giá trị của văn hóacác biểu tượng chuyển tải các giá trị đó. Có thể xem đây là hướng đề xuất mới.

Bài viết Tranh luận văn hóa và văn hóa tranh luận, tác giả muốn xác lập một tiêu chí mới là làm sao qua các cuộc truy tìm, tranh luận ấy, cả hai bên và công chúng đều được nâng cao tầm nhận thức và năng lực thẩm mĩ; tránh những sự cãi vã thiếu văn hóa, vô bổ và mang tính cá nhân, cuối cùng không rút ra được bài học bổ ích, trái lại, làm mất uy tín và mất lòng tin ở người đọc. Khi ấy, vấn đề tranh luận văn hóa lại biến thành phản văn hóa tranh luận.

Cũng trong chủ điểm này, Đỗ Ngọc Yên đã nhạy cảm bàn sâu vấn đề Văn hóa mạng - Nhìn từ hai phía. Tác giả thấy được sự cần thiết của nền văn minh công nghệ trong thời đại ngày nay khi nó trở thành “động lực mạnh mẽ thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa diễn ra một cách nhanh chóng” với sự ứng dụng đa dạng của nó trong mọi lĩnh vực. Bên cạnh ấy, tác giả chú ý cảnh báo phần tiêu cực, bất cập của nó. Chẳng hạn với việc lưu truyền thì chiếc máy điện toán đã không thể đáp ứng nhu cầu của bạn đọc mọi lúc, mọi nơi (nhất là với các bộ tiểu thuyết trường thiên). Làm sao, người đọc lại có thể ngồi liên tục nhiều ngày để đọc, chưa kể sự trục trặc kỹ thuật, sự truyền thụ “từ người này sang người khác, từ vị trí này sang vị trí khác” là không thể. Quan trọng hơn là vấn đề kích thích sáng tạo; nếu nhờ vào phương tiện của máy tính thì cảm xúc, tình cảm trực tiếp sẽ mất đi rất nhiều ở người nghệ sĩ… Chưa kể, đến một lúc nào đó, máy tính sẽ biến con người - chủ thể ý thức - “sẽ trở thành một khâu, một công đoạn, một bộ phận của máy móc”, “tước bỏ hoàn toàn khả năng sáng tạo của trí tuệ con người”. Dĩ nhiên, tác giả đã không bỏ qua mặt trái của điện tử đối với việc giáo dục thanh thiếu niên. Vậy vấn đề là mỗi người cần ý thức trong khi tiếp xúc với văn hóa mạng, biết chọn lựa và nhận thức một cách có văn hóa, hợp quy luật.

Bên cạnh việc bàn về văn hóa - văn học, Đỗ Ngọc Yên cũng đề xuất những vấn đề liên quan đến lý luận văn học. Ở các bài viết này, anh quan tâm đến cái mới và tính hiện đại của lý luận; tránh xa lực hút của kiểu lý luận cũ để thực sự đưa lý thuyết về đúng bản chất của sáng tạo thời hiện đại. “Cái mới trong văn chương thực chất chỉ được nhận thức trong tương quan với cái cũ, và là cái nằm ngay trong cấu trúc nội tại của bản thân tác phẩm văn chương. Cái mới cần phải bao quát toàn bộ các yếu tố cấu thành tác phẩm, để tác phẩm văn chương có thể tồn tại bằng những giá trị đích thực của chính bản thân nó”. Muốn vậy, người nghệ sĩ phải luôn luôn săn tìm, phát hiện
phải bắt nguồn từ cảm thức chủ quan của nhà nghệ sĩ về những vấn đề nhân sinh và nhân bản vượt lên trên tất thảy những định chế xã hội và những hành vi mang tính nhất thời”, “nó phải làm thức dậy trong lòng độc giả sự cảm thông sâu sắc và khát vọng muốn sẻ chia cùng với những số phận đó” (Cái mới trong văn chương).

Trong bài Sự thật lịch sử và hư cấu nghệ thuật, Đỗ Ngọc Yên bàn về sự khác nhau giữa sự thật trong đời sống và sự thật được phản ánh trong tác phẩm. Đó là hai cấp độ, hai khoảng cách rất xa nhau. Anh đề cao tính chủ quan, qua lăng kính sáng tạo của người nghệ sĩ. Hiện thực trong tác phẩm phải là hiện thực cao hơn, tốt đẹp, giá trị hơn về nhận thức, bởi vì người nghệ sĩ đã “loại bỏ tất thảy những gì không mang lại giá trị thẩm mĩ cho hình tượng tác phẩm”. Đó là thế giới thứ hai, không phải hiện thực biên niên sử. Như vậy, người tiếp nhận tác phẩm văn chương phải trở thành người nhận thức và đồng sáng tạo - với ý nghĩa phải cảm nhận và thấy được cái hiện thực cần phải có, sẽ có - một hiện thực sâu sắc và cao đẹp hơn sự thật nguyên mẫu rất nhiều. Đây là vấn đề mà chúng ta phải nhất trí với Đỗ Ngọc Yên.

Tôi muốn tìm hiểu Văn chương - Những cuộc truy tìm theo cái sườn của mình là đi từ những vấn đề văn hóa, lý luận văn học đến quan niệm về phê bình văn học của Đỗ Ngọc Yên như là những tiền đề thao tác, lý luận chung để rồi lần tìm hiểu phần phê bình tác giả - tác phẩm; tranh luận - đối thoại và vấn đề thời sự văn chương trong toàn tập sách.
Bài Về sự khủng hoảng của phê bình văn học, sau khi nêu thực trạng của phê bình và các ý kiến bàn về phê bình ở ta trong những thập niên qua, Đỗ Ngọc Yên đã chỉ ra được “các cuộc tranh luận văn chương từ trước tới nay thường chỉ có mở đầu mà hiếm khi có kết thúc. Nếu có thì đấy là sự kết thúc của những vấn đề chính trị, xã hội, đạo đức hoặc là những chuyện ngoài văn chương, chứ không phải là những vấn đề có tính học thuật của bản thân phê bình văn học”, tức tính khách quan của phê bình của ta thường xem nhẹ, chưa thật sòng phẳng. Phê bình ăn theo sáng tác, phê bình khen nhiều hơn chê, phê mà chẳng bình hoặc bình mà chẳng phê… đã làm cho thị hiếu người đọc bị nhiễu. Đó là “một chứng bệnh nan y, tìm được biệt dược đặc trị cho nó không phải là một công việc dễ dàng trong một sớm, một chiều, mà cần phải có tài năng và sự nhiệt tâm đóng góp của nhiều người, đặc biệt là những người có thẩm quyền quyết định vấn đề”.

Từ bài viết trên, tác giả nghĩ về lực lượng phê bình trẻ hôm nay. Tác giả tin tưởng nhưng cũng không khỏi âu lo về sự bền bỉ, dẻo dai, trường vốn và sự dấn thân đến cùng trên con đường đầy chông gai, hệ lụy này của họ, khi mà sự quan tâm, đối xử của xã hội đối với phê bình còn chưa được nhận thức đúng mức và đúng đắn.

Từ sự quan tâm và mong muốn có một không khí phê bình học thuật đúng đắn thực sự, Đỗ Ngọc Yên đã vào cuộc tranh luận qua bài Phê bình học thuật hay là…, Cần trung thực và nghiêm túc khi bước vào học thuật. Ở đây, Đỗ Ngọc Yên muốn đứng ở đường biên của sự thẩm định có tính khách quan để tranh luận với Văn Chinh về những vấn đề có liên quan đến tác phẩm Ngày văn học lên ngôi của Đỗ Minh Tuấn. Những nội dung cần bàn được tác giả nêu và biện lý rất chân tình trên tinh thần học hỏi, tìm ra chân lý, sự thật, chứ không “đao to búa lớn”, và đặc biệt là không xúc phạm người tranh luận với mình một cách thiếu tôn trọng như ta vẫn thường thấy ở một số người khác. Với các bài Lệch chuẩn hay lệch tâm, bài Sự hoắng trong văn chương…, Đỗ Ngọc Yên đều có cách quan niệm và dựa trên thực trạng của văn học và phê bình văn học ở ta (trên các tạp chí, báo, ở các bài tựa, bạt) để chỉ ra một kiểu phê bình thiếu nghiêm túc và thiếu chính xác, nhằm câu khách hay tâng bốc lẫn nhau “như là chức năng thông tấn của báo chí, vừa là cơ hội để tăng số lượng phát hành của báo trong thế cạnh tranh gay gắt của báo chí thời kinh tế thị trường hôm nay”. Đáng trách là có “một số người mới tò te vào nghề cũng ngứa tay vung bút hoắng lên ra vẻ ta đây cũng là cây phê bình chứ chẳng chịu làm anh nhà báo, chị nhà văn hạng thứ”. Qua đây, Đỗ Ngọc Yên muốn lưu ý đến tác dụng không đúng của các nhận định hoắng như trên, nó sẽ tạo ra hệ quả nguy hại đến thị hiếu người đọc, đến sự thẩm định tác phẩm của những cơ quan chức năng, có khi làm phương hại đến tác giả và tác phẩm không nhỏ. Vậy mà tiếc thay, nhiều người cứ “hoắng lên làm rối mù, gây ô nhiễm bầu không khí văn chương, khiến công chúng chán nản khi họ luôn phải nhảy từ kỳ vọng sang thất vọng chỉ trong nháy mắt. Âu đấy là điều mà người cầm bút chân chính nào cũng cần quan tâm và suy ngẫm. Thiết nghĩ bất cứ ở đâu và lúc nào, một thái độ khách quan, nghiêm túc và chừng mực cũng đều rất cần thiết cho văn chương, cho người sản sinh ra nó và cả nuôi dưỡng nó - công chúng”.

Phê bình văn học là sự tự ý thức của văn học, nó phát triển cùng với văn học, định hướng thẩm mĩ cho người đọc rộng rãi. Vì vậy, ưu tiên cho văn học cùng thời. Ý thức được tầm quan trọng này, Đỗ Ngọc Yên đã vừa quan tâm đến đời sống văn học đương đại qua các tác giả - tác phẩm nổi tiếng, vừa tranh luận - đối thoại với những đồng nghiệp về những vấn đề có liên quan đến đời sống, không khí văn học trước mắt và lâu dài. Cần trả lại giá trị đích thực cho văn chương, Về một cách viết chân dung văn học, Một cách tự họa chân dung, Văn chương, học thuật hay là sự quay lưng lại cộng đồng?, Cái gọi là tính thuần khiết trong học thuật… là những bài viết có tính lý luận, thực tiễn và tính chiến đấu cao. Anh góp ý về cách tuyển chọn không chính xác, mâu thuẫn và thiếu thao tác của Nguyễn Vũ Tiềm trong tác phẩm Nghìn câu thơ tài hoa Việt ; anh đối thoại với Trần Mạnh Hảo về bài thơ thần Sông núi nước của Lý Thư
ng Kiệt (?). Anh tranh luận với Nguyễn Hoàng Đức về tính thuần khiết trong văn chương và đi đến kết luận “Nguyễn Hoàng Đức đã lấy tiêu chuẩn của một số người nào đó làm thước đo cho tất cả mọi người, yêu cầu họ phải khuôn theo cái mẫu ấy là quá khiên cưỡng về học thuật, không khác nào Nguyễn Hoàng Đức đã áp đặt nguyên lý của anh thọt cho người có hai chân lành lặn”, khi ông Đức chưa đưa ra một kiến giải nào về nội dung tính thuần khiết. Nhân bàn về một quyển sách viết chân dung văn học của Vân Long, Đỗ Ngọc Yên bày tỏ ý kiến tán thành giá trị cách viết của tác giả: “Nhà thơ Vân Long đã đứng trên quan điểm của cái Đẹp để tìm kiếm hình hài chân dung các văn nghệ sĩ. Những chi tiết trong tập sách được chọn lọc kỹ càng, cân nhắc, cẩn trọng”, chứng tỏ “khả năng sưu tầm, nghiên cứu và tuyển chọn của anh cũng không kém khả năng thơ”, anh đòi hỏi “bản thân người cầm bút phải có thái độ lao động nghệ thuật thực sự nghiêm túc, có trách nhiệm với mình và với công chúng, sau nữa là trách nhiệm với sự tồn vong và phát triển của nền văn học nghệ thuật nước nhà”. Qua đây, ta thấy được Đỗ Ngọc Yên luôn đề cao cái tâm của người cầm bút.

Nhân bàn luận với Trần Đăng Khoa về tác phẩm Chân dung và đối thoại, Đỗ Ngọc Yên xác định yêu cầu cao đối với người làm công việc phê bình “đòi hỏi phải có tiêu chí rõ ràng và xác tín về mặt thông tin, tư liệu trích dẫn, đặc biệt là đối với những nhận định, đánh giá có tính chất khái quát về một giai đoạn văn chương hay một tác giả, tác phẩm nào đấy và cần phải được chứng minh, biện giải đầy đủ và thỏa đáng, tránh sự gian xảo trong việc sử dụng nguồn thông tin, tư liệu và ăn cắp tư tưởng của nhau, chụp mũ tùy tiện cho người khác. Sự trung thực trong công việc nghiên cứu, phê bình văn học nói riêng và trong khoa học nói chung không những không làm giảm đi uy tín của tác giả, mà còn làm tăng thêm giá trị học thuật của công trình. Âu đấy là một trong những phẩm chất chính yếu đối với những người cầm bút thực sự nghiêm túc”. Nghiêm túc và tôn trọng nghề nghiệp như vậy nên trong các bài viết của mình, Đỗ Ngọc Yên - dù viết dài hay ngắn - anh vẫn tỏ ra trung thành, bản lĩnh và có chính kiến riêng. Và đặc biệt là anh dám nói thẳng, nói đúng cái dở của từng tác phẩm ngay cả những người anh yêu quí.

Mảng bài viết về tác giả, tác phẩm đương đại, Đỗ Ngọc Yên luôn lấy điểm tựa là cái Đẹp để bình luận, phân tích. Anh nâng niu từng giá trị, dè dặt trong nhận định và đặc biệt là dám chỉ ra điểm yếu để định hướng sáng tác. Đó là các bài đánh giá thơ của Vũ Quần Phương (Nhớ chính thân ta), của Nguyễn Thanh Kim (Kêu hoài con cuốc, ước chi…!?), của Duệ Anh (Một tâm hồn khắc khoải đơn côi), của Nguyễn Thị Vân (Người đàn bà có trái tim luôn thức), của Trần Nhật Thu (Đọc thơ Trần Nhật Thu), của Ngô Văn Phú (Nát lòng với chiêm bao)…

Với Đỗ Minh Tuấn, anh đánh giá đúng bản chất thi pháp của nhà thơ tài hoa này, đó là “một trong số ít nhà thơ đã nhìn người lính bằng cái nhìn nhân văn khá sớm từ khi nền văn học Việt Nam nói chung còn phủ đầy lên họ những vòng hào quang của chiến thắng, mang màu sắc tụng ca”, “là nhà thơ sớm có những tìm tòi, cách tân độc đáo, táo bạo”“nếu cần khẳng định một cây bút, một nhà thơ, một tài năng nghệ thuật trong những năm gần đây của thơ ca Việt Nam hiện đại thì Đỗ Minh Tuấn là một trong số những người xứng đáng nhận giải nhất cuộc thi thơ 1989 - 1990 của Báo văn nghệ”… Qua việc phân tích trường ca Trầm tích của Hoàng Trần Cương, anh đã nhận ra những vấn đề quan trọng có liên quan đến người tiếp nhận văn học, đến hiện thực cuộc sống và con ng
ười, đến vấn đề thể loại trường ca. “Lịch sử phát triển của văn học nghệ thuật đã chứng minh hùng hồn rằng ở mọi thời đại chỉ có những tác phẩm văn học dở, chứ không hề có công chúng tồi”. Với ý nghĩa như thế, Hoàng Trần Cương là nhà thơ thực sự “có những phát hiện táo bạo trong việc tạo dựng hình tượng cũng như cách sử dụng ngôn ngữ thơ”, “thơ anh là sự thăng hoa của những nỗi đau quằn quại, những khoảnh khắc giằng xé tâm trạng tưởng như ngoài thơ ra không có gì diễn tả hết được”. Cho nên đến với thơ Hoàng Trần Cương, là “tìm đến những con người, sự việc, những tâm trạng, cảnh huống rất thực và phía sau đấy là những số phận trớ trêu và nghiệt ngã của bao kiếp người, là cuộc vật lộn hóa sinh không chỉ để tồn tại mà còn là để ngẩng cao đầu làm Người”. Những nhận định như thế có tác động đến sự tiếp nhận của người đọc, hướng họ đến những ước vọng tốt đẹp trong cuộc sống.

Với tác phẩm Sông dài như kiếm của Nguyễn Quang Hà, Đỗ Ngọc Yên đã chỉ ra tư tưởng chủ đề của tác phẩm, “không chỉ có cuộc vật lộn giữa chính nghĩa và phi nghĩa, giữa cái sống và cái chết, giữa kẻ đi xâm lược và người chống xâm lược, giữa vũ khí bom đạn và mạng sống của con người, mà còn có một cuộc chiến đấu khác cũng không kém phần gay go và quyết liệt nhằm khẳng định lẽ sống cao thư
ng của con người. Lẽ sống ấy được biểu hiện bằng sự suy nghĩ táo bạo, tinh thần kiên trung, bất khuất, dám xả thân vì Tổ quốc, coi mạng sống của đồng chí, đồng đội quý trọng như chính mạng sống của mình, chứ không thể bằng những lời nói suông nơi đầu lưỡi của những kẻ cơ hội”. Đó chính là chức năng cao cả của văn học. Dù tái hiện hiện thực một thời, nhưng câu trả lời phải hướng về con người trong hiện tại; cảm hứng của nhà văn phải vì cuộc sống cao đẹp và sự hoàn thiện nhân cách của con người hôm nay.

Với hai tác phẩm có nhiều dư luận trái chiều nhau là Đêm thánh nhân của Nguyễn Đình Chính và Cơ hội của Chúa của Nguyễn Việt Hà, Đỗ Ngọc Yên bình tĩnh tiếp nhận và soi rọi từ nhiều hướng, nhiều tiêu chuẩn để rút ra những nhận định đúng đăn. Anh ghi nhận tác phẩm của Nguyễn Việt Hà ở chỗ tác giả đem lại cho “thể loại tiểu thuyết một cách định dạng khá mới mẻ, vượt ra ngoài những khuôn mẫu truyền thống… Đây là một sự tìm tòi, một cách biểu hiện mới của Nguyễn Việt Hà và cũng là thành công của cuốn sách, rất đáng được ghi nhận”.
Với Đêm thánh nhân, Đỗ Ngọc Yên soi rọi ở góc nhìn đạo đức của người trí thức để chỉ ra giá trị nhân cách và phản nhân cách của từng nhân vật: “Nguyễn Đình Chính đã gióng lên hồi chuông cảnh báo đối với lối sống vị kỷ cá nhân, coi đồng tiền là trên hết, bất chấp luân thường đạo lý làm người, luôn lấy việc giẫm đạp lên người khác làm phương kế để tiến thân?”. Vì vậy, “mỗi con người với tư cách là một thực thể hiện tồn ở cõi trần thế này phải tự gánh chịu lấy số phận của riêng mình với những tội lỗi do chính mình hoặc người thân từ tiền kiếp gây nên. Phải chăng đấy là quan điểm triết học nhân sinh mà Nguyễn Đình Chính muốn đặt ra trong Đêm thánh nhân?”.

Tuy vậy, anh cũng chỉ ra những điểm yếu về xây dựng nhân vật và những sai sót về kiến thức triết học và tôn giáo, về ngôn ngữ được vận dụng trong hai tác phẩm trên. Quả là công việc phê bình của Đỗ Ngọc Yên đầy tinh thần trách nhiệm và nghiêm túc, trước hết, là cho chính anh, và thứ đến là cho độc giả.
Đánh giá Hồ Quý Ly trong bài viết công phu Tâm bão giữa trần gian, Đỗ Ngọc Yên đã cho rằng “Nguyễn Xuân Khánh đã làm sống lại một nhân vật lịch sử bằng xương bằng thịt, cùng thời kỳ bi tráng của triều đại nhà Trần những năm cuối cùng, mà ở đó Hồ Quý Ly nổi lên như một nhân vật trung tâm đang ra sức lái con thuyền lịch sử dân tộc vượt cạn đi theo một hướng khác”, “Hồ Quý Ly là hiện thân của một con người chứa đầy mâu thuẫn cùng những bi kịch cá nhân và thời đại. Ông càng ra sức gỡ thì tình thế càng trở nên rối thêm, càng rối lại càng ra sức để gỡ. Cứ thế trong cái vòng luẩn quẩn đó, Hồ Quý Ly đã có lúc rơi vào trạng thái hư vô, trống rỗng và những người như ông, nỗi cô đơn là bạn đồng hành”. Đó là những nhận xét tinh tế. Với tiểu thuyết này, “Nguyễn Xuân Khánh không chỉ mang đến cho thể loại tiểu thuyết lịch sử một sinh khí, nâng vị thế của nó lên một tầm cao mới về nội dung đề tài, chủ đề, kết cấu tác phẩm, cách xây dựng tính cách nhân vật và hình thức thể hiện”. Cuối cùng, anh khẳng định và mách giúp độc giả về giá trị của tác phẩm. “Tôi tin rằng ai đã đọc Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh thì sớm muộn cũng nhận ra đâu là giá trị đích thực của văn chương. Chỉ vậy thôi, Nguyễn Xuân Khánh cũng xứng đáng là một trong nh
ng nhà tiểu thuyết đng hàng đầu của thập niên cuối cùng của thế kỷ XX này”.

Văn chương - Những cuộc truy tìm
không chỉ dừng lại ở vấn đề lý luận, thực tiễn của văn chương đương đại mà còn so sánh, đối chiếu, phản biện nhiều hiện tượng văn học quá khứ, văn học nước ngoài, văn học hiện đại Việt Nam thế kỷ XX. Ở đâu, Đỗ Ngọc Yên cũng chắt chiu phát hiện, lật trở, kiếm tìm để giải mã, đặt và giải quyết vấn đề. Chỉ riêng tâm huyết và trọng trách ấy thôi cũng đã giúp anh có cách tiếp cận mới, làm đầy nội hàm những giá trị của tác phẩm, đặc biệt là những tác phẩm đã có quá nhiều người nghiên cứu. Đó chính là chiếc cầu nối liên chủ thể giữa người đọc với tác giả - tác phẩm - nhà phê bình.
Anh có Bàn về cách tiếp cận Rừng xà nu để bàn về Yếu tố vũ khí với Phạm Hữu Cường và Nguyễn Cảnh Lạc, anh có Những gương mặt của một thời để nhận diện lại vị trí và sự nghiệp văn học của nhà văn - liệt sĩ Chu Cẩm Phong với cái nhìn tự hào, tiếc nuối một tài năng, anh có Nguyễn Đình Chiểu - Nghệ sĩ hay hủ nho để tranh luận với Nguyễn Hưng Quốc nhằm chỉ ra tư cách nhà nho và tư cách nghệ sĩ của Nguyễn Đình Chiểu, từ đó, bàn đến nhân vật Lục Vân Tiên và xác định giá trị của Ngư tiều vấn đáp y thuật, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là khá sâu sắc, có luận lý. Tính luận chiến của Đỗ Ngọc Yên vừa thẳng thắn, vừa nhân tình, cốt coi trọng chân lý nghệ thuật.

Bài Bản thể luận Chí Phèo, theo tôi là một phát hiện mới, bất ngờ đối với người đọc khi ông cho rằng Chí Phèo “chỉ là một con người lừng lững đi giữa cuộc đời, không mong cầu, không oán trách, luôn say mềm trong cái bản ngã vô can của chính mình”, “thực ra, Chí Phèo chưa bao giờ là kẻ ác, ngay cả khi hắn đi cướp giật hay xin đểu… Sự trớ trêu của cuộc đời là người lương thiện đến như Chí Phèo lại luôn bị ám ảnh mình là kẻ bất lương. Còn những kẻ bất lương như gia đình lão Bá lại luôn nghĩ mình là người lương thiện, và luôn lấy làm đắc chí, hãnh diện về điều đó, mỗi khi họ cầm đồng tiền bẩn thỉu do những mánh lới thâm độc hay cướp giật trắng trợn của dân nghèo mà có”. Vậy thì hắn đòi lương thiện là bản tính tự nhiên. Cho nên “Chí Phèo không phải là kẻ vô chính phủ. Hắn không chống lại xã hội cũng không chống lại giai cấp thống trị. Dưới con mắt của hắn, xã hội chỉ là một đám hỗn mang không có trên, không có dưới, không có trật tự kỷ cương, không có đúng, sai, phải, trái… không có người thống trị cũng không có kẻ bị trị, mà chỉ có các sinh thể đang tồn tại”. Chí Phèo không được học hành, giáo dục, không mẹ cha, không họ hàng thân thích thì không thể nhận thức được đầy đủ bản chất của xã hội, không thể nhận biết cái khổ của mình là do đâu. “Thực ra, Chí Phèo chưa bao giờ để tâm đến việc đó. Hắn chỉ đòi làm người đích thực, theo đúng nghĩa của nó. Hắn chưa hề sống theo một tôn chỉ đạo đức, chính trị hay tôn giáo nào… Từ khi sinh ra cho đến khi lìa khỏi cõi đời này, Chí Phèo luôn sống theo cái mình muốn - tức là sống theo bản năng tồn tại của chính hắn… Cuối cùng, hành động giết Bá Kiến đối với hắn không nhằm mục đích trả thù cho gia đình, dòng họ hay chống lại sự bất công, đòi quyền bình đẳng xã hội, đòi tiền bạc, đòi quyền lực, bởi vì hắn làm gì có những thứ đó; chẳng qua bản ngã tồn tại của Chí Phèo bị dồn nén tích tụ trong vô thức đến mức hắn không thể làm khác được. Chính hành động ấy là con đường tất yếu khách quan đưa Chí Phèo đi giật lùi để trở về cái bản ngã vô can của hắn”. “Cách đi lùi để trở về bản ngã của Chí Phèo cũng là một con đường đắc dụng và độc đáo. Chí Phèo là hình tượng văn chương duy nhất về con người Việt có thể đi lùi để trở về bản ngã”. Đó là nhận định buộc ta phải suy nghĩ và thay đổi bổ sung cách đánh giá về Chí Phèo.

Trong bài Đọc lại Làm đĩ, Đỗ Ngọc Yên cũng có cái nhìn truy tìm cái mới ấy ở nhân vật Huyền. Đó là giá trị nhân bản của hình tượng, ở sự phân tích tâm lý chiều sâu của Phân tâm học hiện đại thì mới hiểu hết nguyên nhân “làm đĩ” của Huyền. “Ở đây, ngoại cảnh xã hội và gia đình tuy đóng một vai trò quyết định, nhưng cuộc đấu tranh sinh tồn giữa cá thể và loài, cá nhân và cộng đồng mới là cái có ý nghĩa quyết định quá trình hình thành tính cách của Huyền”. “Huyền làm việc ấy bằng tổng thể sức mạnh của cái tôi cá nhân”. Đặt trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam trước cách mạng tháng Tám, và đặt trong môi trường của gia đình Huyền mà Vũ Trọng Phụng đã miêu tả trong tác phẩm thì “Huyền là một người thật sự dũng cảm, không chỉ dám bơi ngược dòng nước mà còn đi trước thời đại hơn một nửa thế kỷ để khẳng định quyền làm ng
ười của mình bằng sức mạnh bản năng vốn có - nhu cầu tình dục”. Và Đỗ Ngọc Yên đã nhận ra đó cũng chính là “quá trình tìm lại cái tôi nghệ sĩ của ông (Vũ Trọng Phụng) đã vô tình bị người đời tước đoạt, nhưng trong thực tế chính bản thân ông cũng tỏ ra bất lực trong cuộc vật lộn để giằng giật lại nó; và điều đó còn là khát vọng giải phóng con người của nghệ sĩ Vũ Trọng Phụng. Phải chăng đấy là logic tất yếu của sự tồn tại không thể nào đảo ngược và là căn nguyên sâu xa cho những lý lẽ khả dĩ đem lại một cái nhìn thật sự nghiêm túc về Làm đĩ của ông”. Phải nói là Đỗ Ngọc Yên đã không ngừng tư duy, động não để thực sự là nhà phê bình khoa học, luôn săn tìm cái đẹp.

Như từ đầu tôi đã nhận xét, đây là tập sách của một hành trình dài dấn thân vào nghiệp bút, Đỗ Ngọc Yên đã thành thật với chính mình khi đi truy tìm sự thật nghệ thuật. Bài đánh giá của tôi cũng chỉ dừng lại ở việc điểm lại, đồng tình và giới thiệu một gương mặt phê bình văn học. Nhiều bài viết trong tập sách về văn học nước ngoài và các cuộc tranh luận văn chương, tôi cũng không thể điểm hết. Bạn đọc sẽ tiếp cận và hiểu thêm về anh. Điều cần khép lại ở đây là, qua Văn chương - Những cuộc truy tìm, tôi yêu quí một phong cách phê bình. Yêu quí ở tinh thần, thái độ, ở văn phong, ở tính trung thực thẳng thắn và nhân văn trong tranh luận và học thuật. Nhiều bài viết dài - ngắn, đầu tư có khác nhau do mục tiêu in ấn và trải dài trong thời gian trên dưới 20 năm nên cũng dễ thấy tính không đồng đều của nó; chưa kể, một số bài phục vụ đăng báo - anh cũng đưa vào tập, nên làm phá vỡ tính chỉnh thể của những bài công phu. Đó là điều đáng tiếc của tập sách. Nhưng dù sao, qua đây, ta đã thấy được tầm quan trọng của phê bình văn học - “mỹ học vận động”, của những nỗ lực xác lập nguyên tắc thẩm mĩ trong phê bình, của việc truy tìm cái mới trong văn chương, của việc quan tâm đến đời sống văn học đương đại để làm “người tiền trạm” cho người đọc. Và, cuối cùng là việc hướng tới hình thành một quan hệ tương tác giữa phê bình với sáng tác và thị hiếu thẩm mĩ của toàn bộ quá trình văn học. Với ý nghĩa ấy, công trình của Đỗ Ngọc Yên đáng được yêu quí, trân trọng.
Huế, 3-2007
H.T.H

(nguồn: TCSH số 221 - 07 - 2007)

 



-------------------
 (1) Đỗ Ngọc Yên - Văn chương - Những cuộc truy tìm, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2006.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!

  • HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.

  • MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.

  • ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc                                  Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.

  • TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.

  • MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.

  • TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.

  • HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNG                 Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.

  • ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.

  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!