Vài thiển ý của dân ngoại đạo*

09:35 26/03/2010
TÔ NHUẬN VỸ(Nhân đọc một số bài tranh luận về cuốn THƠ ĐẾN TỪ ĐÂU)

Bìa cuốn "Thơ đến từ đâu"

1 - Nguyễn Đăng Thường viết “...Chuyện công - tội đã được/ bị bàn luận tứ tung rồi... THƠ ĐẾN TỪ ĐÂU bây giờ thuộc về người đọc”.

 Nguyễn Đăng Thường khách quan. Ông có lý. Từ cái lý này, tôi thêm chút tự tin để có vài thiển ý lạm bàn chuyện thơ ca thiêng liêng mà tôi là dân ngoại đạo. Chỉ với tư thế của người đọc.

Nhưng tôi là một người đọc may mắn. May mắn vì có quan hệ với tác giả, khá thân tình nữa, nên đã được đọc bản gốc THƠ ĐẾN TỪ ĐÂU khi “nó” đang được sếp và biên tập viên nhà xuất bản Hội Nhà văn tìm cách thức “vượt cạn” để cho được “mẹ tròn con vuông”.

2 - Trên VĂN CHƯƠNG VIỆT, nhà văn, nhà giáo Phạm Toàn nhận xét cách phê bình của Nguyễn Đức Tùng trong THƠ ĐẾN TỪ ĐÂU như sau:

... “Anh mời các nhà thơ đang sống cùng tuyển chọn, cùng giảng giải, cùng thắc mắc, cùng gây rối, cùng chia rẽ, cùng xí xóa, cùng nhâm nhi, cùng hội nhập, cùng mê mải, cùng liều lĩnh, cùng tọc mạch, cùng xấu tốt, cùng tốt xấu...; nói chung lại là đã có một cung cách làm ăn HẾT SỨC KHÁC (tôi nhấn mạnh - TNV) và cách đó trở nên đáng yêu ở chỗ đã tạo ra cái cớ để các đồng tác giả luôn luôn cùng kề cà được với nhau - một sự kề cà dễ dàng đi tới chân lý hơn là thẳng băng logic, mặc dù trong lĩnh vực Thơ, trong một cuốn sách in năm 1991 tôi có nói rằng muốn nổ ra chiến tranh thế giới thì chỉ việc chê thơ của các nhà thơ!”.

Cách phê bình hóa thân - nhập cuộc không giống ai này, có vẻ không có “định hướng” rõ ràng này, ngay khi vừa đọc bản thảo gốc, tôi đã lờ mờ đoán sẽ bị không những “lưỡng đầu thọ địch” mà sẽ là “tứ phương thọ địch” khi xuất hiện trên văn đàn.

Nhưng văn chương đâu có khuyến dụ giống nhau như sản xuất hàng loạt hoặc như biết bao bài phê bình, phỏng vấn mới mở đầu người đọc đã đoán được kết thúc, hỏi câu đầu đã đoán biết câu thứ 2 thứ 3, mới hỏi đã biết sẽ trả lời thế nào...? Văn chương quá cần những phong cách và tư duy không rập khuôn, không như bản cửu chương. Cách làm mới và lạ này “chạm” tuốt, chạm với cả thói quen cũ kỹ (không chủ ý) ngay trong những người “đổi mới” và ủng hộ Tùng hết mình nữa! Vì vậy, chưa có một tác phẩm phê bình nào, trong mấy chục năm qua, mà in chưa ráo mực đã lập tức ào ào dấy lên bài vở công kích và bênh vực, tranh luận và cãi lộn dữ tợn như vậy. Nhưng, chính vì thế, tôi nghĩ lại là bình thường (có lẽ ngoại trừ sự phản ứng bài TRÒ CHUYỆN VỚI HOA THỦY TIÊN của Nguyễn Huy Thiệp vứt tất cả các nhà thơ Việt Nam vào sọt rác, nhưng cũng chưa đến mức nổ ra chiến tranh thế giới mà ông Phạm Toàn dự báo).

Cho nên, không được như ông Phạm Toàn đọc rất nhiều mà chỉ thích hai tác giả phê bình là Hoài Thanh và Nguyễn Đức Tùng (ông cũng nói hẳn là ông nghiêng về Nguyễn Đức Tùng hơn), tôi đọc phê bình ít nhưng chỉ biết là khi đọc THƠ ĐẾN TỪ ĐÂU tôi thấy đây là cuốn sách có ích đối với tôi, trên nhiều mặt, cho dù nó chưa thiệt “lý tưởng” như Nguyễn Đăng Thường nhận xét.

3 - Được đọc bản gốc và có bản mới do nhà xuất bản Lao động ấn hành, tôi vừa đồng ý vừa có những điều muốn góp ý thêm đối với chuyện “biên tập” (mà phần lớn bạn bè trong nước thì cho rằng nên “thông cảm”, “nước mình nó vậy”; còn bạn bè ngoài nước phần lớn lại cho là “bị kiểm duyệt, bị cắt đục bỏ”).

+ Không đồng ý cắt bỏ:

Nhiều đoạn bị cắt bỏ không nên tý nào, không cần thiết, kể cả lý do “an toàn chính trị”. Sức khỏe tinh thần của xã hội, của người đọc, của người viết, kể cả không ít của “cơ quan chức năng”, đã khác với những năm bảy mươi tám mươi thế kỷ trước.

+ Đồng ý phải cắt bỏ:

Lần đầu đọc bản thảo THƠ ĐẾN TỪ ĐÂU là khi tôi đang ở Boston (Hoa Kỳ) được Nguyễn Đức Tùng từ Vancouver ( ), qua meo, gửi cho tham khảo. Có anh chị trả lời khiến tôi phải meo cho Tùng “viết chi lạ rứa?” và hỏi lại có phải nguyên bản rứa không? Mà rứa thiệt. Không phải chuyện chính trị chính em chi hết. Mà chỉ chuỵên chữ nghĩa ăn nói, chuyện đời, chuyện người thôi. Viết răng mà lạ. Tôi tin rằng, nếu để anh chị đó coi lại trước lúc in, nhất là in trong nước, thì chính anh chị đó cũng tự chỉnh sửa thôi. Chứ chữ nghĩa bề bề mà hở ra là nói tục, chửi tục, nói văng mạng thì quá... chướng. Ngay lên án độc tài, mất dân chủ cũng không nên dùng chữ nghĩa bùn lầy nước đọng quá xá. Đó là chưa kể có những bài lê thê, quá sâu chuyên môn như trong một bài giảng 3 tiếng đồng hồ trên lớp cho sinh viên, càng đọc đầu óc càng... rối tung! Thì phải “biên tập” chớ sao nữa. Tôn trọng tác giả, nhưng cũng phải tôn trọng người đọc, tôn trọng chính người phỏng vấn chứ?

Khi đó tôi có nói với Nguyễn Đức Tùng là có những ý tưởng rất lớn, rất đáng giá cho sự đổi thay của cả một nền văn học, các tác giả đó phải là ƯU TIÊN SỐ MỘT của Tùng, phải đề cao những bài đó lên, kể cả cách không nên vì lịch sự mà để những bài ít giá trị, thậm chí ăn nói thô tục mà giá trị thì còn mù mờ, bên cạnh những ưu tiên số một kia. Không nên cho “cua cá vô một giỏ”. Đó là tôi nói cảm nhận của mình khi đọc bản gốc.

Có nhiều phỏng vấn hay, có giá trị, nhưng không đều, giá chắt lọc hơn thì tuyệt... hơn.

Cha ông mình nói “hợp lý”, cái “lý” phải “hợp” thì mới hợp lý. Vitamin B1 là thuốc bổ, nhưng ăn no xong uống 300 viên B1 thì... toi.

Nhưng, trên tất cả, THƠ ĐẾN TỪ ĐÂU là cuốn sách có ích với đời sống tinh thần của tôi. Cảm ơn người phỏng vấn và các anh chị đã trả lời phỏng vấn, cảm ơn nhà xuất bản, nhà xuất bản “hụt” cũng như nhà xuất bản “trúng”.

Huế ngày đầu năm 2010
T.N.V
(253/03-10)

---------------                         
* Bài đã được đọc ở Hội thảo THƠ ĐẾN TỪ ĐÂU ngày 06/01/2010 tại Trung tâm văn hóa Pháp, 24 Tràng Tiền - Hà Nội.



 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN THỊ NGỌC LAN (Đọc tập thơ Ngược xuôi thế sự, Nxb Văn học, 2011)

  • THÁI KIM LAN Tưởng niệm Cố Hoà Thượng Thích Thiện Châu Vừa qua tôi lục giấy tờ cũ, tình cờ thấy một trang giấy có thủ bút của Thầy Thích Thiện Châu (cố Hoà Thượng Thích Thiện Châu), một bài thơ. Cảm động quá. Bài thơ này Thầy viết sau khi khoá Thiền mùa hè năm 1990 chấm dứt và là lần cuối cùng Thầy sang giảng khoá Thiền tại Muenchen.

  • THI THOẠI        Nhân 90 năm ngày mất Phan Kế Bính (1921– 2011) Phan Kế Bính hiệu là Bưu Văn, bút danh Liên Hồ Tử, người làng Thụy Khuê (làng Bưởi), huyện Hoàng Long, nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội, thọ 46 tuổi (1875 - 1921).

  • MIÊN DI Không tìm thấy, và cũng đừng nên tìm ở tập thơ này một điều gì đã từng được nhiều người đồng vọng trước đây. Nó là những mảnh tiểu tự sự, những cái nhìn cô lẻ, biệt dị từ đáy thân phận và đôi khi tàn nhẫn.

  • HOÀNG DIỆP LẠC (Đọc tập “Thơ tự chọn” của Nguyên Quân, Nhà xuất bản Văn học, 8-2011)

  • ĐOÀN ÁNH DƯƠNG“Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đương có sự thay đổi lớn: hôm nay tôi đi học”…

  • NGUYỄN TRỌNG ĐỨC (Cảm nhận về tập thơ "Những kỷ niệm tưởng tượng")SHO - Lâu nay, người ta biết đến Trương Đăng Dung với tư cách là một nhà nghiên cứu lí luận văn học. Nhưng gần đây, sự xuất hiện của tập thơ Những kỷ niệm tưởng tượng làm xôn xao văn đàn Việt Nam đã khiến đông đảo bạn đọc không khỏi ngạc nhiên khi nhận ra rằng: bên cạnh một Trương Đăng Dung lí luận còn có một Trương Đăng Dung thơ.

  • ĐÀO ĐỨC TUẤN Lang thang giữa hè Huế nồng nã. Bỗng nhận tin của Minh Tự: thêm một cuốn sách của Nguyễn Xuân Hoàng vừa được bạn bè góp in. Đầy đặn  360 trang sách với chân dung “người buồn trước tuổi” đằm đặm trên bìa đen trắng.

  • Vào lúc 14 giờ 25 phút ngày 13 tháng 7 năm 2011 (nhằm ngày 13 tháng 6 năm Tân Mão), nhà thơ Văn Hữu Tứ, hội viên Hội Nhà văn TT. Huế đã qua đời sau một thời gian lâm trọng bệnh. Từ đây, trong mái nhà anh gần hồ Tịnh Tâm, trên các con đường của Thành phố Huế cũng như những nơi anh thường lui tới, tác giả của các tập thơ “Bên dòng thời gian”, “Tôi yêu cuộc đời đến chết” vĩnh viễn vắng mặt.

  • LÊ HUỲNH LÂM (Đọc tập thơ “Năm mặt đặt tên”, Nxb Thuận Hóa, tháng 5-2011)

  • KHÁNH PHƯƠNG Nguyễn Đặng Mừng đến với nghề viết một cách tự nhiên, mà cũng thầm lặng như cách người ta theo đuổi một lý tưởng. Ông vốn là học trò lớp ban C (ban văn chương) những khóa gần cuối cùng của trường Trung học Nguyễn Hoàng, trường công lập duy nhất và cũng danh tiếng nhất tỉnh Quảng Trị trước 1975.

  • …Thuộc dòng dõi Do Thái Đông Âu, Frederick Feirstein sinh ngày 2 tháng Giêng năm 1940 tại New York City, thân phụ và thân mẫu ông có tên là Arnold và Nettie Feirstein…

  • L.T.S: Nhà thơ Xuân Hoàng sinh năm 1925 tại Đồng Hới, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Nguyên là quyền Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, thuở nhỏ ông học ở Huế rồi dạy học ở Đồng Hới một thời gian trước khi thoát ly tham gia cách mạng.

  • Anh không thấy thời gian trôi thời gian ở trong máu, không lời ẩn mình trong khóe mắt làn môi trong dáng em đi nghiêng nghiêng như đang viết lên mặt đất thành lời về kiếp người ngắn ngủi.(T.Đ.D)

  • HOÀNG THỤY ANH Phan Ngọc đã từng nói: Thơ vốn dĩ có cách tổ chức ngôn ngữ hết sức quái đản để bắt người tiếp nhận phải nhớ, phải xúc cảm và phải suy nghĩ do chính hình thức tổ chức ngôn ngữ này.

  • TRẦN THIỆN KHANH (Nhân đọc Phim đôi - tình tự chậm, Nxb. Thanh niên 2010)

  • LGT: Tuệ Nguyên, một nhà thơ trẻ dám dấn thân để lục tìm chất men sáng tạo ở những vùng đất mới với khát vọng cứu rỗi sự nhàm chán trong thi ca. Trong chuyến xuyên Việt, anh đã ghé thăm tạp chí Sông Hương. Phóng viên Lê Minh Phong đã có cuộc trò chuyện với nhà thơ trẻ này.

  • KHÁNH PHƯƠNG Lê Vĩnh Tài tự chẩn căn bệnh của thơ tình Việt Nam là “sến”, nghĩa là đa sầu đa cảm và khuôn sáo, bị bó buộc trong những lối biểu hiện nhất định. Rất nhanh chóng, anh đưa được lối cảm thức đương đại vào thơ tình, cái ngẫu nhiên, vu vơ, ít dằn vặt và không lộ ra chủ ý, dòng cảm xúc ẩn kín sau những sự vật tình cờ và cả những suy lý.

  • HỒ THIÊN LONGBạn đọc TCSH thường thấy xuất hiện trên tạp chí, và một số báo văn nghệ khác một số tên tuổi như về văn xuôi có: Lê Công Doanh, Phùng Tấn Đông, Châu Toàn Hiền, Nguyễn Minh Vũ, Trần Thị Huyền Trang, Phạm Phú Phong, Trần Thùy Mai…