Vài suy nghĩ quanh lăng tẩm Huế

08:51 06/12/2011
PHAN HƯƠNG THỦY Hệ thống lăng tẩm và Cung điện ở Huế luôn luôn là một đối tượng chính của các nhà nghiên cứu Mỹ thuật, và các nhà nghiên cứu lịch sử Huế đã để lại cho chúng ta những cái mà thời trước không còn.

Lăng Tự Đức - Ảnh: Thái Nguyên Hạnh

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Huế, đất thần kinh, chỉ có Huế chúng ta mới còn có được một nền nghệ thuật mang tính chất cung đình, chỉ Huế chúng ta mới hiểu được phần nào về b cục của kiến trúc cung điện, lăng tẩm của thời kỳ gọi là "phong kiến". Đến Huế chúng ta không chỉ dừng lại những gì còn tồn tại, những nét của tạo hình, mà mặt nào đó còn ở nhiều vấn đề của lịch sử chứa đựng trong những kiến trúc tại đây. Trong đó nổi lên là hệ thống lăng tm.

Hệ thống lăng tẩm của vương triều Nguyễn thường nằm ở vùng thượng nguồn sông Hương, xa nhất là lăng Gia Long, gần nhất là lăng Tự Đức. Nhà Nguyễn có tất cả mười ba vua kế tục nhau, nhưng chỉ để lại cho chúng ta có by lăng. Cách xây dựng của bảy lăng này theo chúng tôi, đã chịu nhiều ảnh hưởng của điều kiện đương thời. Mỗi lăng tương ứng với một vua và hình thức giữa các lăng rõ ràng có sự khác nhau. Chính vì thế nên có nhiều người đã có khi nhm tưởng "lăng là người". Sau khi khảo sát điền dã Huế, tiếp cận trực tiếp với các lăng tm, chúng tôi thấy có nhiều vấn đề được đặt ra. Nếu tin giả thiết "lăng là người", thì tại sao trong bảy lăng ta ch có thể chia ra bốn dạng? Sao Thiệu Tr cũng là một nhà thơ, như

Tự Đức, lại có lăng xây qui phạm như lăng Minh Mạng? Cảnh nên thơ ở lăng Tự Đức xuất phát từ ý muốn nhà vua hay có ảnh hưởng của điều kiện xã hội v.v...


Theo chúng tôi, vấn đề trước hết chúng ta nhận thấy là toàn bộ lăng tm triều Nguyễn đều nằm ở phía tây kinh thành, đương nhiên khi được chọn như vậy vì nó lệ thuộc vào địa thế. Nhưng sự bố trí này theo chúng tôi còn bắt nguồn từ một ý niệm có tính chất truyền thống. Người Việt cổ cũng như nhiều cư dân khác trên thế giới, đặc biệt là cư dân Đông Nam Á đã quan niệm rằng hướng mặt trời lặn đồng nhất với nơi cư ngụ của các kiếp đời đã qua. Chỉ phương đó những linh hồn cá thể mới có thể đồng nhất và nhập vào được với các linh hồn vũ trụ đại đồng, mới có thể giải thoát.

Vấn đề thứ hai được đặt ra là toàn bộ các lăng được nằm ở những vị trí cực đẹp, phong quang. Con sông Hương nên thơ, nước bốn mùa trong xanh là con đường dẫn các linh hồn nhà vua về cõi "vĩnh cửu". Một đặc đim chung của các lăng này là nổi lên ý nghĩa "thoát tục".

Người ta đã trồng đầy thông xung quanh lăng và các khu mộ (thường không trồng nơi tm). Cảnh đẹp của thiên nhiên với sự phối hợp của đồi núi, sông Hương và cây trồng không đơn giản chỉ nói lên sự "nên thơ" mà thực chất ở đó chúng ta còn nhìn thấy vấn đề tư tưởng. Nhà Nguyễn ngay từ ông vua đầu tiên đã đề cao Nho giáo, coi đó như một hệ tư tưởng chính thống. Nhưng Nho giáo cũng chỉ tồn tại trong một giai đoạn lịch sử nhất định, về sau Nho giáo ngày càng lỗi thời, không đủ tư cách là cứu cánh của triều đình trong việc t chức xã hội. Chính điều đó đã khiến cho các nho sĩ đương thời ít nhiều tìm về với tư tưởng Lão Trang, tư tưng Thiền.

Xu hướng này bộc lộ rõ ở Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Nguyễn Siêu v.v... và ngay ở một số nhà vua của triều Nguyễn nữa. Quay trở về với Phật giáo là con đường đã có sn từ thời các chúa Nguyễn. Cho nên cảnh quan các lăng ở Huế rõ ràng đã phản ánh một nét chung về tư tưởng Thiền, tư tưởng Lão.

Cây thông mang ý nghĩa tượng trưng cho sự trong sáng ngay thẳng, cho trường thọ, cho sự chịu đựng với phong ba. Nhưng ở đây nó còn mang ý nghĩa thanh tao thoát tục. Đó là vấn đ tư tưởng, là một đối trọng của cuộc đời mà các vua triều Nguyễn như cần phải có.

Vấn đề thứ ba là sự phân loại các lăng. Dạng thứ nhất là lăng Gia Long. Lăng Gia Long qui phạm, song thông qua những nét của tạo hình, bố cục chúng ta còn nhận thấy như phảng phất, tương đồng với các miếu mộ miền Bắc. Lăng này còn chịu nhiều ảnh hưởng của truyền thống.

Cách xây dựng lăng Minh Mạng và lăng Thiệu Trị quy phạm khá chặt chẽ. Qua lăng ta thấy chúng chịu ảnh hưởng nhiều mặt của cách xây dựng lăng tại quê hương của Nho giáo, song trong quá trình xây dựng người Việt đã giải quyết những kiến trúc này còn bằng những nhận thức truyền thống của mình.

Dạng thứ ba là lăng Tự Đức. Nhiều người khen lăng này đẹp như một công viên, là một cung điện thứ hai đ rồi qua đó mà nhìn nhận về một đặc đim ca Tự Đức và xã hội. Theo chúng tôi ngoài những vấn đề trên, lăng còn phản ảnh ít nhiều tư tưởng đương thời. Lúc này đất nước đang đứng trước họa xâm lưc, của tư bản phương tây, triều đình bạc nhược, Nho giáo khủng hoảng... Các nho sĩ đi tìm cứu cánh tư tưởng Lão Trang mà một đin hình là Cao Bá Quát với câu "kho trời chung mà vô tận của mình riêng"... Tư tưởng trên đã ít nhiều chi phối cả tầng lớp thống trị trong đó có cả vua Tự Đức.

Cũng vì thế mà kết cấu của lăng Tự Đức chứa đựng những ý nghĩa phản ánh sự "khúc mắc" của xã hội đương thời. Thực ra không phải chỉ có ý muốn riêng của nhà vua.

Dạng thứ tư là lăng Khải Định. Những chi tiết tạo hình được phô diễn ra bên ngoài và biu hiện những nét "ồn ào" bế tắc, sự khủng hoảng của tư tưởng chính thống và cả bước đường đi của nghệ thuật. Đầu thế kỷ hai mươi đạo Nho đã xuống đến chân dốc, tư tưởng phương Tây trước hai cuộc khai thác của thực dân chưa du nhập một cách ào ạt vào nước ta. Xã hội Việt Nam đầu thế kỷ không có một hệ tư tưởng chính thống, hay đúng hơn lòng người không qui thuận về một hệ tư tưởng chính thống nào, vì thế giai đoạn này đã nổi lên nhiều hình thức mê tín dị đoan. Nghệ thuật tạo hình rõ ràng không có đường hướng. Sự phát trin khá tùy tiện, bao gồm cả cái hay và cái dở để tạo nên nhiều di tích mang tính vá víu. Nó cũng là điều kiện để cho nền mỹ thuật Việt bị gẫy mạch truyền thống sau hai cuộc khai thác của thực dân Pháp kiến của anh Thái Bá Vân).

Tình hình ấy đã cho ta nhìn nhận chân xác hơn về lăng Khải Định, một lăng đã để lại cho chúng ta nhiều vấn vương, suy nghĩ. Tuy vậy lăng Khải Định đối trọng với những nét "ồn ào", chịu ảnh hưởng của nghệ thuật phương Tây ở bề ngoài, thì ở bên trong những mảng khảm sành sứ, ghép gốm đã đạt đến đỉnh cao của loại hình nghệ thuật này. Thông qua những hình tưng của các mảng chạm người ta có thể tìm thấy ở đó những biu tượng cổ truyền trong ý niệm cầu phồn thực, những đề tài bắt ngun từ nhiều thi gian trước.

Vấn đề thứ tư được đặt ra với chúng tôi là các loại tượng hầu của các lăng. Tiếp cận với các lăng tẩm Huế buộc chúng ta phải so sánh với các lăng tẩm của các thời gian trước, nhất là những lăng vua. Thời Lý không để lại cho chúng ta một lăng tẩm cụ thể nào. Thời Trần các lăng tẩm cũng không còn nguyên vẹn, một số tượng người và thú vật được làm khá thực, nhưng lại quá ít ỏi, nên chúng ta khó đưa ra được nhận xét. Thời Lê Sơ còn nhiều hơn cả, đó là các lăng vua tại Lam Sơn, Thanh Hóa. Chúng tôi muốn so sánh từ các lăng vua này. Tượng hầu trong các lăng thời Lê Sơ thường quá nhỏ bé (cao khoảng 0,70cm). Nếu theo quan niệm hiện nay thì các tượng đó không được tương xứng với vai trò của nhà vua! Nhưng thực tế đã cho thấy những tượng đó là sản phm của chính thời Lê Sơ, nó gắn liền với những lăng tẩm của thời này. Các tượng đó phản ánh đúng quan niệm của đương thời. Dựa vào những khảo sát dân tộc học ở các cư dân ít người, trên miền Bắc và Tây Nguyên, thì các loại tượng hầu các khu mộ đều được gắn cho một linh hồn để trở thành kẻ hầu hoặc vật s hữu của người chết. Trong quan niệm của nhiều dân tộc cũng như của người Việt thế giới được chia làm ba tầng. Tầng trên là nơi cư ngụ của các thần linh với các thân hình khng lồ, tầng giữa của con người và muôn loài muôn vật, tầng dưới (âm ty) là nơi tập trung của những người đã từ bỏ cõi đời. Tầng này người và vật đều bé nhỏ (Chuyện cổ tích của người Kinh đã ghi lại, khi đường âm dương còn thông nhau, người âm phủ thường lên trn chơi, họ bé nhỏ đến nỗi leo lên cây ớt mà không gẫy). Cho nên những tượng thờ khi được gán cho linh hn để hu hạ người đã qua thì phải một thân hình tương xứng. Tới thế kỷ XVII, khi nền kinh tế thương mại được phát trin, quan niệm cũ dần được thay đi, nên trên các miếu mộ của các "qun công", tượng mồ được làm quá lớn, nhiều khi to hơn cả thực tế, hình thức ấy như đã biểu hiện sự sang quý của chủ nhân nấm mồ. Từ đây quan niệm cũ như ở lăng Lam Sơn bị suy lạc và dẫn tới các lăng triều Nguyễn tại Huế đã vượt qua những ý niệm cổ truyền mà tạo dựng nên các tượng mồ tương đối lớn xấp x như thực.

Vấn đề thứ năm là những hòn đá được đặt hai bên phía sau các tượng mồ của Huế. Chúng tôi được nghe trong một lời giới thiệu đó là hình tượng của Thanh Long và Bạch H tượng trưng cho phương hướng hoặc là hình ảnh của Long H hi, biểu tượng về sự quần tụ của các trí thức chầu về nhà vua. Nhưng trên thực tế trong một lăng đã có nhiều hòn đá xếp hai bên phía sau tượng (lăng Minh Mạng, Thiệu Trị). Những hòn đá này mang hình dáng như hòn non bộ. Nhiều khi bên cạnh nó được trồng một cây "vũ trụ", cây thiêng như cây đại (cây sứ). Như vậy theo chúng tôi ngoài ý nghĩa trên những hòn đá này như còn bắt nguồn từ tục thờ đá của dân tộc ta "... Nói chung những hòn đá đó đã đưc gắn cho có một linh hồn tự nó có khả năng tác động tới cuộc sống con người, về hình thức thường có dạng như những cây cột hay đá cắm. Ngoài ý nghĩa trên nó còn chứa đựng ý nghĩa là vật chuyên chở sinh lực hay linh hồn. Quan niệm này đã thấy một số (nhánh) người Na Ga Miến Điện hay người Mường của ta..." (1).

Qua đây ít nhiều chúng ta có thể hiểu những hòn đá gần như tự nhiên ở lăng mộ Huế có l còn giữ lại được những quan niệm cổ truyền sâu xa hơn những ý nghĩa bắt nguồn không trọn vẹn từ Trung Hoa.

Huế không những đẹp và thơ, gây nhiều xúc động cho kẻ "hành hương" mà còn là nơi hàm chứa nhiều vấn đề thuộc các lĩnh vực khác nhau, như kiến trúc, nghệ thuật, văn học, lịch sử… đây với "vài suy nghĩ quanh lăng tẩm Huế", chúng tôi mong góp một vài suy nghĩ được ny sinh trong một chuyến đi để di tích Huế ngày càng đẹp và có ý nghĩa là một chỉnh thể văn hóa viên mãn.

P.H.T
(19/6-86)




----------------
(1) Trn Lâm Biền - Cột chùa Giạm - Tư liệu Viện Nghiên cứu Mỹ thuật






Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • JEAN CLAUDE VÀ COLETTE BERNAY (Chủ tịch Hiệp Hội "Nghệ thuật mới Việt Nam", thành viên của Nhóm công tác Huế - Unesco, phụ trách dự án Duyệt Thị Đường từ năm 1993)

  • NGUYỄN QUANG HÀ                            Bút kýMột nhà triết học đã nói: "MỌI NGƯỜI ĐỀU ĐI BẰNG ĐÔI CHÂN CỦA MÌNH". Lúc ăn chưa no, lo chưa tới, đọc câu này, tôi cười: "Dễ ợt thế, có gì mà nói". Lớn lên mới thấy được câu ấy thật chí lý, thật ghê gớm. Hầu như tất cả những ai mượn đôi chân của người khác đi đều sứt đầu, bươu trán cả. Tuy không nói ra, song những tiền đề, định hướng cho mọi hành động đều có xuất phát điểm từ nội dung câu nói ấy.

  • HOÀNG NGỌC VĨNHTrong hơn 300 năm từ 1636 đến 1945, với tư cách là Trung tâm chính trị và văn hóa của Đàng Trong và là kinh đô của đất nước thống nhất, Huế trải nhiều thăng trầm nhưng vẫn giữ được những thuần phong mỹ tục và các thành tựu của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, hội tụ được nhiều kỳ tích về nhiều phương diện. Huế bình tĩnh, chắc chắn đi lên và đang hiện đại hóa. Cố đô cổ kính hài hòa trong thành phố mới sôi động, xứng đáng với phần thưởng cao quý mà UNESCO trao tặng trong tháng 8. 1994 "Huế di sản văn hóa của thế giới".

  • XUÂN HUY        "Chợ Đông Ba đem ra ngoài giại        Cầu Trường Tiền đúc lại xi - moong"

  • TÔN THẤT BÌNHThừa Thiên Huế vốn là vùng đất miền Trung nổi tiếng về hò. Ngày trước, hò khá phổ biến trên mọi miền đất nước, nhưng đặc biệt ở miền Trung, hò là một đóng góp quan trọng về thể loại dân ca Việt Nam.

  • LTS: Nhạc sĩ Trần Hoàn là người từng công tác nhiều năm, và có nhiều gắn bó với TTH. Nhân dịp ông vào Huế công tác, phóng viên Nguyễn Việt có cuộc trò chuyện với ông xung quanh những vấn đề về Huế và âm nhạc. Xin giới thiệu với bạn đọc nội dung cuộc trò chuyện này.

  • HỒ VĨNHTừ đường Qui Đức công chúa tọa lạc bên cạnh đường đi lăng Tự Đức thuộc thôn Thượng 2, xã Thủy Xuân, thành phố Huế. Đây là một ngôi từ đường cổ có tuổi thọ trên 100 năm. Bình đồ từ đường có kiến trúc gần vuông, nội thất có 1 gian 2 mái gồm 20 cột gỗ lim, kiền. Ở gian chính giữa treo bức hoành khắc nổi sáu chữ Hán "Qui Đức công chúa từ đường".

  • NGUYỄN KHẮC PHÊLâu nay, nhắc đến vùng biển gắn liền với Huế, người ta chỉ biết có Thuận An " bãi tắm Thuận An", " Cảng Thuận An", " nhà nghỉ Thuận An"... còn eo Hòa Duân, nghe như là một địa danh mới nổi tiếng sau cơn lũ lịch sử đầu tháng 11 này.

  • THANH TÙNGSáng 4/11/99, khi còn kẹt ở Đà Nẵng, nối được liên lạc với với Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế Nguyễn Văn Mễ qua Mobi Fone tôi mới biết mức nước ở Huế đã vượt đỉnh lũ lịch sử từ 1 - 1,2 mét.

  • QUÍ HOÀNGLăng tẩm trừ lăng Khải Định, Hổ Quyền, trong Hoàng Thành trừ Thái Bình Lâu, Lẩu Ngọ Môn ở vị thế cao nên thoát khỏi nước. Còn tất cả 14 khu di tích khác với hàng trăm công trình kiến trúc đều bị ngập trong biển nước. Chỗ cao nhất trong nội thành cũng ngập 1 mét 50 nước, chỗ ngập sâu nhất của lăng Minh Mạng là trên 5 mét. Nhà bia ở đây nước ngập dần tới mái.

  • ĐOÀN MINH TUẤNViệt Nam - mảnh đất dài như một chiếc đàn bầu đã là quê hương sản sinh ra chiếc áo dài phụ nữ duyên dáng. Dải đất hình chữ S thắt lưng eo ở Huế, cũng như chiếc áo dài "thắt đáy lưng ong" dịu dàng, e ấp, kín đáo và lộ rõ đường nét:        Rõ ràng trong ngọc trắng ngà        Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên                                                        (Nguyễn Du)

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNTừ sau ngày các chúa Nguyễn thiên di thủ phủ xứ Đảng Trong đến Kim Long (1636) và Phú Xuân (1687), do yêu cầu tiêu dùng của phủ Chúa và quan binh, đã hình thành ở Phố Lữ Bao Vinh một khu phố thị. Đến nửa thế kỷ XIX khu phố thị nầy lan dần lên phía chợ Dinh Gia Hội và tồn tại cho đến ngày nay. Kinh thành Huế được UNESCO công nhận là Thành cổ thì khu Gia Hội Chợ Dinh chính là khu phố cổ của Huế.

  • VÕ HƯƠNG AN (*)Ngày trước tôi chưa thấy nơi nào nhiều am, miếu, điện, đền như ở Huế. Và cũng chưa thấy nơi nào mà việc lên đồng lại phổ biến và quen thuộc như ở Huế. Nội dọc con đường chạy từ xóm Cầu Đất tới cống Vĩnh Lợi đã có khá nhiều điểm lên đồng, nào am ông Cửu Cường, am bà Thầy Bụi, Phước Điền Điện của ông Giám Hưu, am ông Chấn.v.v nói chi đến những nơi khác nữa.

  • NGUYỄN VĂN MẠNHLàng Phước Tích được thành lập vào khoảng thế kỷ XV, gần với quá trình mở mang bờ cõi về phương Nam của nhà nước phong kiến Đại Việt. Trong gia phả của họ Hoàng - dòng họ khai canh ở Phước Tích có đoạn chép: "Đến đời Lê Thánh Tôn, niên hiệu Hồng Đức thứ nhất và hai (1470 - 1471), ngài thủy tổ họ Hoàng lúc bấy giờ là Hoàng Minh Hùng, tục gọi là Nồi, nguyên người làng Cẩm Quyết, tỉnh Nghệ An, đã thân chinh đánh đuổi quân Chiêm Thành, sau chiến thắng trở về ngài đi xem xét đến nguồn Ô Lâu, bao chiến địa phận từ Khe Trăn, Khe Trái đến xứ Cồn Dương, sau khi xem bói, đoán biết được chỗ đất tươi tốt, ngài liền chiêu tập nhân dân thành lập làng" (1).

  • NGUYỄN QUANG SÁNG                                 Ký Mỗi lần ra Huế về tôi cứ áy náy là chưa đến viếng Nhà thờ tổ nghề Kim Hoàn, vì cha tôi và anh em tôi đều là thợ kim hoàn. Nghề kim hoàn của cha tôi đã nuôi các anh chị em tôi. Cũng với nghề kim hoàn gia đình tôi đã trải qua biết bao thăng trầm. Mãi đến ngày 05/8/2004 này nhờ sự giúp đỡ của Tạp chí Sông Hương (Nguyễn Khắc Thạch, Vũ Bích Đào, Diệu Trang) tôi đã đến Nhà thờ thuộc làng Kế Môn, huyện Phong Điền.

  • TRẦN THỊ THANH…Núi Thuý Vân và chùa Thánh Duyên vì trước kia được xem là một trong những thắng cảnh của đất Thần Kinh nên các Chúa và các vua Nguyễn thường về đây thưởng ngoạn và làm thơ phú ca ngợi. Tuy nhiên, nổi tiếng hơn cả vẫn là những bài thơ được khắc trong hai tấm bia - một dựng trong chùa, một dựng dưới chân núi…

  • HỒ VĨNHĐồi Vọng Cảnh nằm cách thành phố Huế 7km về phía tây nam, vùng sơn phận này gồm nhiều núi đồi gối đầu lên nhau trong một khu vực rộng khoảng 2.400 ha diện tích đất tự nhiên. Về mặt địa hình của ngọn đồi, từ vị trí của tấm bia cổ Lý Khiêm Sơn (núi gối hậu của Khiêm Lăng - Tự Đức) kéo dài lên Vọng Cảnh là một dãy liên hoàn.

  • NGUYỄN QUANG HÀChùa Huyền Không Sơn Thượng tan trong non xanh và lá xanh. Dẫu đang còn tranh tre mộc mạc, nhưng thanh thoát, duyên dáng và thảnh thơi như lòng người ở đây. Đúng như nhà sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh tâm sự: “Cảnh là tơ duyên của đời”. Đến Huyền Không Sơn Thượng cảm giác đầu tiên của tất cả du khách là thấy lòng mình ấm lại.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHChùa Linh Mụ đẹp quá, nên thơ quá. Nói vậy cũng chưa đủ. Nó tịnh định, cổ kính, an nhiên, trầm mặc. Nói vậy cũng chưa đủ. Phải nói nó là một bài thơ Thiền lồng lộng giữa không gian mây nước, giữa khói sương, giữa mênh mang dâu bể và lòng người. Nó là bức tranh thủy mặc thuộc họa phái Sumiye, Nhật Bổn, mà, nét chấm phá tuy giản phác nhưng lung linh, ảo diệu; vượt thời gian và đi vào vĩnh cửu. Nó là bài kinh vô ngôn, tuy không nói một chữ, mà đã làm lắng đọng trăm ngàn xôn xao của cuộc thế; và, gợi nhắc vô biên cho con người hướng đến điều chân, lẽ thiện...

  • NGÔ MINHHuế trên 350 năm là thủ phủ Chúa Nguyễn Đằng Trong và Kinh Đô của Đại Việt đã tích tụ nhân tài, vật lực cả quốc gia tạo ra một hệ thống Di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc và nổi tiếng như nhã nhạc, lễ hội dân gian, văn hóa ẩm thực... Trong Di sản văn hóa ẩm thực Huế, Văn hóa ẩm thực Cung đình là bộ phận tinh hoa nhất, giá trị nhất!