TÔ NHUẬN VỸ
(Nhân tiểu thuyết Đời du học vừa ra mắt bạn đọc)
Tôi thích gọi Hiệu (Lê Thị Hiệu) hơn là Hiệu Constant, nhất là sau khi đọc, gặp gỡ và trò chuyện với Hiệu.
Ảnh: internet
Vào Blog của Hiệu xem những bức ảnh Hiệu bên cánh hoa bèo tím giữa đồng đất Thường Tín, bên cây đước Cà Mau, dưới gốc sứ Đại nội Huế… Hiệu ngẩn ngơ nghe ca tài tử và những bài hát rưng rưng chất đồng quê Lý Qua Cầu. Hiệu đi thăm, lặn lội đi thăm mọi miền đất nước này: miền Tây Bắc, Vinh, Huế, Bình Phước, chợ nổi Cái Răng, đất mũi Cà Mau... Rồi chuyện Hiệu “huấn luyện” thế nào mà anh chồng Claude dòng dõi trí thức gia giáo của nước Pháp biết ăn tất cả những món ăn Việt, kể cả mắm tôm. Hiệu tỉ mẩn, kiên trì dạy dỗ hai con, Bin và Hà, biết nói chuyện tiếng Việt với bố mẹ bằng cả những tiếng thật tha thiết “Mẹ ngoan mẹ nha… Bố ừ một tiếng cho vui vẻ đi”. Chuyện ra sức “cày” nhận dịch cho nhiều nhà xuất bản trong nước cũng là để có tiền thường xuyên về nước, để đắm chìm trong bao lo toan cho bà con ruột thịt, cho các con của anh của chị, cho nỗi nhớ thương vô hạn bố mẹ đã khuất và mỗi lần đặt chân lên mảnh đất Thường Tín, Hiệu như con chim bị nhốt trong lồng được thả về lại rừng. Cho đến câu chuyện mày tao huyên thuyên, trên trời dưới đất với cậu bạn học cấp 1 ngày xưa bây giờ lái taxi kiếm sống... Tôi có cảm giác rằng mỗi ngày có 24 giờ thì hồn vía Hiệu đã dành cho quê nhà đến 20 giờ rồi. Và cả cái tật… nói ngọng lẫn lộn lờ - nờ thi thoảng bật ra… đãi bạn bè nữa. Tất cả, tất cả những “thứ” đó đã cho tôi có một ấn tượng mạnh mẽ về Hiệu: trong con người chứa đầy hiểu biết văn chương, văn hóa Tây - Đông này, hồn vía vẫn nơi làng quê Việt nam, vẫn nơi một làng quê đồng đất Bắc Bộ. Không hề thấy bóng dáng “bà đầm Việt Kiều” nơi Hiệu. Đó là đặc điểm lớn, là nguồn mạch vô tận nuôi cảm xúc, tài năng của Hiệu đã biểu lộ qua từng trang viết của chị.
*
Đọc 3 tiểu thuyết Lê thị Hiệu, từ Côn trùng, Đường vắng đến Đời du học, các truyện ngắn như Chênh vênh, Dưới chân Hòn Dáu…, bên cạnh gần 40 cuốn sách dịch của Hiệu, chỉ trong vòng hơn 10 năm, mới thấy sức làm việc khủng khiếp của chị. Nhất là, trong mỗi tiểu thuyết, trên từng trang, từng chương, kho kiến thức mà Hiệu tìm hiểu, “huy động” giúp mở mang trí óc người đọc, là không nhỏ, nếu không nói là… khổng lồ. Như trong Đời du học. Có thể nói, trên mỗi bước chân mà nhân vật Nguyễn Quang Minh Tiến (NQMT) đặt tới, trên mỗi con đường mà NQMT đã qua, trên mỗi nơi chốn mà NQMT đã sống trong suốt quãng đời du học, Hiệu đã khéo léo, chu đáo gài vào các kiến thức văn hóa, lịch sử… cô đọng nhất về một Paris sâu đậm lịch sử, văn hóa của nhân loại (tòa nhà Montparnasse, khu đồi Montmartre, Khải hoàn môn, tháp Epfel, hệ thống Metro, hệ thống cầu đường, vườn Lucxamboure, thư viện Miterran...). Nói cách khác, chỉ đọc Đời du học, người đọc cũng đã có một kho kiến thức không nhỏ về thành phố vĩ đại này. Đó là chưa kể Hiệu còn cho bạn đọc các chuyến đi… du lịch hấp dẫn và đầy kịch tính tới tận Algieri, tận Đu-bai, tận Jerusalem cùng nhân vật của mình. Và trong sự miên man khám phá lẫn đầy ắp tình bạn, tình người đó, có những trang viết thật tài hoa của Hiệu. “Làn sương mỏng đã đậu trên những bụi cây lúp xúp trên sườn núi và trời bắt đầu lành lạnh, củi cháy bừng bừng, ngọn lửa lật phật ngả nghiêng theo chiều gió thổi, hắt lên một quầng sáng, soi tỏ khuôn mặt bỗng trở nên đăm chiêu” của nhà triết học chăn cừu Théo de Bourbon giữa không gian dân dã và huyền hoặc của triền đồi hoàng hôn… (trang 115 Đời du học).
Hiệu có một thói quen độc đáo là chỉ thích đi xe máy. Đi xe máy khủng ngay giữa thủ đô ánh sáng, với lý lẽ rất chi là Việt cộng: tại sao ở làng quê Thường Tín mình quen đi xe máy mà qua Paris lại không đi được?! Chính thói quen đầy cá tính mạnh mẽ này đã giúp Hiệu thành một thổ công ở gần như mọi ngõ ngách của Paris mà nếu sớm quen thói… mệnh phụ ngồi ô tô sang trọng tuyệt đối không thể nào có được. Cũng vậy, khi về Việt Nam, Hiệu cũng tìm một chiếc xe máy để đến bất cứ vùng đất nào cũng có thể len lách đến tận nơi tận chốn, dù đó là một vùng rừng núi lạ hoắc. (Lần đầu tôi gặp Hiệu là khi chị đi xe máy chở nhà thơ Ngọc Bái đi… thám hiểm các ngõ ngách của Huế)... Trong hình dung của tôi, Hiệu là một con người khát khao khám phá, khát khao hiểu biết cuộc sống thật chính xác, chi li mà tai - mắt - mũi - da - bàn chân - bàn tay đều là những ăng ten chĩa ra mọi hướng mọi phương đời sống, trong mọi lúc mọi nơi để thu nhận những thông tin về đời sống văn hóa, đời sống lịch sử, đời sống thực của con người. Chỉ riêng những thông tin đó đầy ắp trong từng trang viết đã là quá bổ ích cho người đọc. Đây là một đặc điểm quý báu trong các trang viết của Lê thị Hiệu, cho dù là truyện ngắn, bút ký hay tiểu thuyết.
*
Hai đặc điểm đó của của văn chương Lê thị Hiệu là hai điểm ưu việt không dễ có được. Lại thêm bản lĩnh sống của chị, qua lời tâm sự của nhà văn H với nhân vật NQMT “Không được buồn quá 4 tiếng đồng hồ và không được thất vọng quá 24 giờ”, tôi tin văn chương của Hiệu sẽ lung linh và hấp dẫn hơn.
Hà Nội 16/11/2013
T.N.V
(SDB11/12-13)
BÙI NGUYÊN
Ngửa (Nxb. Hội Nhà văn, 2017) không đơn thuần chỉ là tập truyện ngắn với nhiều hoàn cảnh thân phận và sự trầm tư riêng biệt của cư dân Sài Gòn đã cùng tác giả đồng hành qua hơn nửa thế kỷ sinh cư trên cái thành phố vốn dĩ là trung tâm sinh hoạt sôi động năng nổ với đầy đủ hương vị sống. Đó là cảm nhận đầu tiên của tôi khi lần lượt mở từng trang của tập truyện ngắn ngồn ngộn hoài niệm của nhà văn Ngô Đình Hải.
NGUYỄN TRỌNG TẠO
1.
Trước khi có Hàn Mặc Tử, người ta chỉ biết có hai loài đáng trọng vọng là “Thiên thần” và “loài Người”. Nhưng từ khi có Hàn Mặc Tử, người ta mới biết còn có thêm một loài nữa, đó là “loài thi sĩ”.
NGUYỄN THỊ TỊNH THY
Bông hồng cho Mẹ của bác sĩ - thi sĩ Đỗ Hồng Ngọc là một bài thơ hay về mẹ. Hay đến mức nào? Hay đến mức lặng người, lạnh người. Hay đến mức phải gọi đó là tuyệt tác.
LÊ MINH PHONG
(Nhân đọc Chậm hơn sự dừng lại của Trần Tuấn, Nxb. Hội Nhà văn, 2017)
TRẦN NGỌC HỒ TRƯỜNG
Tư tưởng văn học của Tản Đà (1889 - 1939) không thuần nhất mà là sự hỗn dung của “tư tưởng Nho gia, tư tưởng Lão Trang và tư tưởng tư sản”1.
MỘC MIÊN (*)
Là một trong những cây bút trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Phan Thị Thanh Nhàn không chỉ là người có duyên thầm trong thơ mà còn có duyên kể chuyện đặc biệt là những câu chuyện dành cho lứa tuổi thiếu nhi.
NGUYỄN ĐỨC TÙNG
Trong thơ trữ tình, lịch sử không tồn tại. Trường ca làm chúng tồn tại.
(Ý kiến của Nguyễn Văn Bổng, Xuân Cang, Nguyễn Kiên, Hà Minh Đức, Hoàng Ngọc Hiến)
Sách chuyên khảo “Sự ra đời của đế chế Nguyễn” của A.Riabinin tiến sĩ sử học Xô Viết nghiên cứu lịch sử xã hội - chính trị của Việt Nam vào đầu thế kỷ XIX.
LÊ MINH PHONG
(Nhân đọc: Rừng khô, suối cạn, biển độc… và văn chương của Nguyễn Thị Tịnh Thy, Nxb. Khoa học xã hội, 2017).
TRẦN VIẾT ĐIỀN
Trong sách “Nhìn lại lịch sử”, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2003, tác giả Phan Duy Kha viết bài “Một bài thơ liên quan đến lăng mộ vua Quang Trung”.
BÙI KIM CHI
“Tháng Tám năm Ất Dậu (1945)… Là công dân Việt Nam nên tôi đã tham gia phong trào chống xâm lăng…”. (Truyện ngắn Mũi Tổ).
TRƯƠNG THỊ TƯỜNG THI
Thuật ngữ triết luận gắn với tính trí tuệ hay tính triết lý trong văn học nói chung và trong thơ ca nói riêng xuất hiện từ rất sớm.
NGUYỄN THẾ QUANG
Nói đến nhà văn Nguyễn Khắc Phê thì không gì bằng đọc cuốn tự tuyện của anh. Số phận không định trước(*) đưa ta đi suốt cuộc hành trình sáng tạo nghệ thuật bền bỉ quyết liệt suốt năm chục năm qua của anh.
NGUYỄN HỮU SƠN
Thiền sư Vạn Hạnh (?-1018) gốc họ Nguyễn, người hương Cổ Pháp (nay thuộc phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh), thuộc thế hệ thứ mười hai dòng Thiền Nam phương Tì Ni Đa Lưu Chi.
NGUYÊN QUÂN
Một cảm nhận thật mơ hồ khi cầm trên tay tập sách, vừa tản văn vừa tiểu luận của nhà văn Triệu Từ Truyền gởi tặng. Sự mơ hồ từ một cái tựa rất mơ hồ bởi lẽ chữ là một thực thể hữu hiện và chiếc cầu tâm linh chính lại là một ảo ảnh rất dị biệt với thực thể hữu hạn của những con chữ.
TUỆ AN
Đọc “Ảo giác mù”, tập truyện ngắn của Tru Sa (Nxb. Hội Nhà văn, 2016)
TRẦN VIẾT ĐIỀN
Ngô Thì Nhậm viết bài thơ Cảm hoài cách đây 223 năm, nhân đi sứ báo tang Tiên hoàng Quang Trung băng hà và cầu phong An Nam quốc vương cho vua Cảnh Thịnh.