Chiều ngày 17/12, tọa đàm ra mắt tiểu thuyết Cô độc của nhà văn Uông Triều diễn ra tại tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 4 Lý Nam Đế - Hoàn Kiếm, Hà Nội. Tọa đàm với chủ đề Cuộc hành hương của chữ, đã thu hút đông đảo các nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu, phê bình văn học đến dự và phát biểu ý kiến.
Toàn cảnh tọa đàm.
Uông Triều sinh năm 1977, tên thật là Nguyễn Xuân Ban, bút danh Uông Triều gắn với vùng Uông Bí, Đông Triều – Quảng Ninh, quê hương của anh. Từng có 10 năm làm giáo viên ngoại ngữ ở vùng Đông Bắc Việt Nam, nhưng vì đắm đuối với văn chương, chữ nghĩa, Uông Triều rời quê hương lên Hà Nội, gắn bó với nghiệp văn.
Đến nay, Uông Triều đã có hai tập truyện ngắn (Đêm ở Ngọa Vân, Bò hoang phố Cổ), bốn cuốn tiểu thuyết (Tưởng tượng và dấu vết, Người mê, Sương mù tháng Giêng, Cô độc), một tập tản văn, tùy bút về Hà Nội (Hà Nội quán xá phố phường). Có thể nói, Uông Triều là một cây bút giàu nội lực, ham đọc, ham nghĩ và say sưa viết.
Cô độc là cuốn tiểu thuyết mới nhất, vừa ra mắt độc giả cuối năm 2019. Đây là cuốn sách tác giả gửi gắm rất nhiều tâm huyết và hi vọng sẽ tạo nên làn gió mới trong đời sống tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
Mỗi tác phẩm văn học nghệ thuật ra đời là một sinh thể ra đời. Người ta vẫn thường nói, tác phẩm là đứa con tinh thần của nhà văn. Chính vì thế, quá trình thai nghén, ấp ủ lâu dài cùng những kì vọng lớn lao sẽ là tâm thế chung của các nhà văn. Phát biểu chào mừng các nhà văn, nhà nghiên cứu, phê bình và công chúng yêu văn học có mặt tại tạp chí Văn nghệ Quân đội, nhà văn Nguyễn Bình Phương bày tỏ sự vui mừng trước thành quả nghệ thuật của các nhà văn, và chào đón những người yêu văn chương đến với Văn nghệ Quân đội. Ông nhấn mạnh: Văn nghệ Quân đội luôn mở rộng cánh cửa với tinh thần trọng thị, sự đàng hoàng và sang trọng nhất dành cho văn chương. Trong tư cách một người đọc, một đồng nghiệp, nhà văn Nguyễn Bình Phương gửi lời chúc mừng nồng nhiệt đến nhà văn Uông Triều và tác phẩm mới của anh.
Tại cuộc tọa đàm, PGS.TS. Phạm Xuân Thạch (Trưởng khoa Văn học – Đại học KHXH&NV, Đại học Quốc gia Hà Nội) có những ý kiến đánh giá cụ thể về tác phẩm. Theo diễn giả, cuộc sống đang quá bề bộn, con người bị cuốn vào quá nhiều thứ lo toan, vì thế, thời gian và tâm thế dành cho văn chương dường như đang bị nhạt dần. Để chuyên tâm cho đọc và viết, để có những cuộc tọa đàm ý nghĩa như Cuộc hành hương của chữ, thực sự là điều khó khăn, cần cố gắng rất nhiều.
Trong phần trình bày của mình, Phạm Xuân Thạch đánh giá Cô độc là tác phẩm làm hoàn thiện phong cách của Uông Triều. Những cuốn tiểu thuyết của Uông Triều, trong cảm nhận và hình dung của Phạm Xuân Thạch, đã mở ra những thế giới nhân văn, dù có u buồn, cô độc, ám ảnh bởi cái chết, nhưng lại luôn đánh động đến đời sống của mỗi chúng ta.
Cũng tại cuộc tọa đàm, trong vai trò diễn giả chính, TS. Mai Anh Tuấn (Chủ nhiệm Bộ môn Viết văn, Khoa Viết văn – Báo chí, Đại học Văn hóa Hà Nội) đã phân tích khá kĩ lưỡng lớp lang, cấu trúc và giá trị của tiểu thuyết Cô độc. Theo diễn giả, đây là một cuốn tiểu thuyết công phu của Uông Triều. Một trong những điểm rất đáng chú ý của tác phẩm chính là việc tác giả đã đi sâu vào đời sống tâm lí nhân vật, phăn lần ra những ngõ ngách sâu kín, những diễn biến tinh vi của tâm lí con người. Trong bối cảnh nhiều người lo ngại việc các nhà văn có vẻ “xa rời hiện thực”, thì lựa chọn của Uông Triều là một hướng đi can đảm.
Có thể, theo Mai Anh Tuấn, người đọc sẽ thấy mệt mỏi, tuy nhiên, đó là hành trình không hề dễ dàng khi ta đến với thế giới tinh thần của kẻ khác, bản thể khác. Chú ý đến nhịp điệu của tiểu thuyết Cô độc, Mai Anh Tuấn cho rằng, nhịp điệu chậm là một điểm nhấn đáng ghi điểm của Uông Triều. Để giữ được nhịp chậm mà không nhàm chán, người viết cần phải có cách kể hấp dẫn, lôi cuốn. Nhịp điệu chậm của Cô độc còn là cách đối thoại với những xu hướng khai thác khía cạnh nhanh, mạnh, gấp, kịch tính của nhiều cách viết, cách biểu hiện nghệ thuật (cũng như đời sống hiện nay).
Bàn về sự cô độc, Mai Anh Tuấn cho rằng, có 3 vấn đề lớn, làm toát lên trạng thái cô độc, đó là: tình trạng từ chối hoặc không thể giao tiếp với người khác (sáng tạo luôn cô độc); tình trạng không chốn dung thân – gia đình, cơ quan, người tình đều không còn là nơi nương náu; sự cô độc của con người trước tự nhiên và ám ảnh cái chết sâu sắc.
Tại cuộc tọa đàm, nhiều ý kiến quan trọng khác cũng đã được nêu lên. PGS.TS. La Khắc Hòa đã phân tích cặn kẽ cấu trúc của Cô độc. Theo ông, đó là lối cấu trúc “Song hành đẳng cấu bất đồng hình”. Lí giải cấu trúc này một cách khá thú vị, La Khắc Hòa đi đến kết luận, viết của Uông Triều là một cuộc chơi – chơi cấu trúc. Từ cấu trúc ấy, các vấn đề của thể loại, ngôn ngữ, chủ đề,… lần lượt được triển khai. Ông nhấn mạnh: Cô độc là khi chính mình thấy không phải với mình. Viết là hành trình tìm kiếm mình, để mình là mình, đối lập với cái không phải là mình.
Cuộc tọa đàm diễn ra sôi nổi với nhiều ý kiến đa chiều đến từ các nhà văn, nhà nghiên cứu phê bình khác. Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên đánh giá cao những tìm tòi trong cách viết của Uông Triều, nhưng ông bày tỏ rằng tác phẩm còn chưa tới. Nhà văn Sương Nguyệt Minh bày tỏ thành thực, nhà phê bình đừng đòi hỏi quá nhiều ở nhà văn, anh ta viết từ sự lựa chọn của bản thân và mỗi tác phẩm chỉ là một mảnh rất nhỏ của đời sống. Cô độc của Uông Triều là một tác phẩm mang nhiều kì vọng của tác giả, tuy nhiên, theo nhà văn Sương Nguyệt Minh, vẫn còn thiếu một yếu tố gì nữa để tác phẩm thực sự thuyết phục được ông.
Nhà phê bình Nguyễn Hoài Nam đánh giá rằng, cuốn Cô độc đã chạm được đến những ám ảnh dai dẳng của con người về sự sống và cái chết. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp cũng nhận định, viết văn là quá trình tìm đạo, và đức là điểm cuối cùng của hành trình tìm kiếm ấy. Viết văn hay làm gì chăng nữa, cái đức, cái thiện mĩ vẫn là điều nhà văn nên giữ lấy trong lòng mình và gửi gắm vào trong tác phẩm.
Trong hình thức là một cuộc tọa đàm ra mắt sách, nhưng kì thực, Cuộc hành hương của chữ, với “ngòi nổ” là Cô độc, cử tọa đã có một buổi sinh hoạt học thuật thực sự ý nghĩa. Các ý kiến phát biểu tại tọa đàm đã nêu lên nhiều vấn đề quan trọng của văn chương, của nhà văn và hành trình của chữ. Từ cuộc ra mắt sách trang trọng này, công chúng văn học tiếp tục chờ đón những tác phẩm mới của nhà văn Uông Triều trên cuộc hành hương nhọc nhằn và kì diệu của chữ nghĩa.
Theo LÊ PHONG - VNQĐ
Giải thưởng văn học Sông Mekong lần thứ 11 sẽ diễn ra tại thủ đô Phnompenh, Campuchia vào cuối năm 2020. Hai tác giả Việt Nam đoạt Giải thưởng năm nay là tác giả Trần Nhuận Minh với tác phẩm sách thơ Qua sóng Trường Giang và tác giả Trần Ngọc Phú với tác phẩm Từ Biên giới Tây Nam đến đất Chùa Tháp.
Trong dịp kỷ niệm 100 năm Ngày sinh nhà thơ Tố Hữu (4-10-1920 - 4-10-2020), NXB Hội Nhà văn cho ra mắt bạn đọc tập sách dày dặn, công phu và nghĩa tình Tố Hữu - Một đường thơ, một đường đời.
Nhà thơ Vũ Quần Phương cho rằng, người cuối cùng của phong trào Thơ mới vừa từ giã bạn đọc ở tuổi 100 – thi sĩ Nguyễn Xuân Sanh - là người “không để thơ… ngủ quên trên thành công của dòng lãng mạn trước đó”.
Đoàn Ngọc Thu nói rằng chị thích thơ của mình ngày xưa hơn. Những xúc cảm ấy vẫn như còn váng vất trong những vần thơ trong tập “Sau bão” (NXB Hội Nhà văn, 2020).
Ra đời cách đây 25 năm, bộ truyện “Kính Vạn Hoa” của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh có ý nghĩa đặc biệt, khơi luồng gió mới cho văn học thiếu nhi Việt Nam thời kỳ đổi mới, mang đến món ăn tinh thần lý thú bổ ích. Tuy nhiên, quá trình thực hiện bộ sách cũng thử thách những người chọn lựa bước trên con đường dài sáng tạo không ngừng nghỉ.
Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh sinh năm 1920 tại Ðà Lạt, nguyên quán Quảng Bình, lúc nhỏ theo học ở Trường Quốc học Quy Nhơn (cũ), sau đó chuyển ra Hà Nội.
Sáng 22/11/2020, Nhà thơ Trần Đăng Khoa đã thông báo chia sẻ tin buồn cho các nhà thơ và những người yêu thơ đó là nhà thơ tiền bối nổi tiếng Nguyễn Xuân Sanh vừa qua đời.
NXB Văn học giới thiệu “Nghề vương bụi phấn”, tác phẩm thứ ba của tác giả Nguyễn Huy Du, gồm những câu chuyện về tình thầy trò với văn phong mộc mạc, giản dị nhưng lôi cuốn, nhân Ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11.
Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh sinh ngày 16 tháng 11 năm 1920, quê gốc thuộc huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Ông cũng là một trong những hội viên tiền phong tham gia xây dựng Hội Nhà văn Việt Nam. Năm nay ông tròn 100 tuổi. Hội Nhà văn Việt Nam vừa tổ chức chúc thọ nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh tại trụ sở số 9, Nguyễn Đình Chiểu hôm 9/11/2020 với sự tham gia của lãnh đạo Hội, các nhà văn nhà thơ và đại diện gia đình của ông.
“Nẻo vào văn xuôi đương đại Việt Nam” là tập tiểu luận - phê bình của TS Bùi Như Hải, do NXB Văn học ấn hành tháng 9-2020.
Sáng 5-11, Viện Văn học Việt Nam đã tổ chức toạ đàm nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh PGS – nhà nghiên cứu văn học Vũ Đức Phúc. Đây là một dịp để các thế hệ Viện Văn học ngồi lại cùng ôn cố và “soi chiếu cho tương lai” – như lời PGS,TS Nguyễn Đăng Điệp, Viện trưởng Viện Văn học nhận định.
Bằng sự lao động miệt mài và nghiêm túc, nhà văn Lê Văn Nghĩa thường gửi đến độc giả những đầu sách độc đáo, nhiều cuốn trong số đó có giá trị như một “bảo tàng ký ức” của không chỉ riêng tác giả.
Thạch Lam (1910 - 1942) là đại biểu xuất sắc của văn xuôi lãng mạn Việt Nam thời kì 1930 - 1945. Văn Thạch Lam đọng nhiều suy nghiệm, nó là cái kết tinh của một tâm hồn nhạy cảm và từng trải về sự đời (Nguyễn Tuân).
Sáng ngày 20/10/2020, Hội Nhà văn Việt Nam đã tổ chức kỉ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ Tố Hữu (4/10/1920 – 4/10/2020).
Đã có nhiều nhà văn viết về Hà Nội - Thủ đô yêu dấu - như Thạch Lam, Vũ Bằng, Tô Hoài, Nguyễn Khải… Nhưng tập truyện ký “Hà Nội và tôi” (NXB Hội Nhà văn) gần 300 trang với hơn 20 tác phẩm của nhà văn Vũ Ngọc Tiến, một người Hà Nội gốc, đã cho ta biết thêm một phần chân dung về những con người của đất Tràng An thanh lịch.
Tháng 10, nhân kỷ niệm 66 năm ngày Giải phóng Thủ đô, Nhã Nam giới thiệu tới bạn đọc một tác phẩm mới của nhà văn Nguyễn Trương Quý, cây viết vốn quen thuộc với những tản văn về các góc nhỏ của Hà Nội: “”Hà Nội bảo thế là thường”.
Rất lâu rồi, không có luận văn, luận án nào về thơ Tố Hữu. Cũng lâu lắm rồi, sau Hà Minh Đức, Trần Đình Sử… rất ít người viết về thơ ông. Tôi cũng chưa bao giờ viết về thơ Tố Hữu khi ông còn sống. Nhưng với chúng tôi, thơ Tố Hữu là nguồn suối tươi mát, mạch ngầm sống động trong đời sống tinh thần. "Chúng tôi" ở đây là thế hệ những người ở lứa tuổi 70. Trong quãng thời gian 70 năm của một đời người thì ít nhất có 30 năm (1954 - 1975) chúng tôi đã được sống với thơ Tố Hữu.
Bằng kiến thức của một chuyên gia đầu ngành và sự trân trọng quá khứ một đi không trở lại, ông đã chỉ ra giá trị của cuốn sách và ý nghĩa của việc làm sống lại những kí ức Hà Nội rất đặc biệt thông qua cuốn sách này...
Có một bộ phim tôi không thực nhớ nội dung, một bộ phim của Woody Allen mang tên "Đóa hồng tím ở Cairo", câu chuyện mang máng mà tôi còn nhớ, đó là một người phụ nữ thất bại trong tất cả mọi khía cạnh cuộc đời, rồi cô vào một rạp chiếu bóng, xem một bộ phim, và trong giây phút ấy, cô quên béng mất cuộc đời mình, cô òa khóc, không phải vì mình, mà vì những nhân vật trong phim.
Năm 1941, với việc xuất bản Dế mèn phiêu lưu ký ở tuổi 20 (bản in đầu tiên có nhan đề Con dế mèn), Tô Hoài có được hai vinh dự lớn trong nghề cầm bút: Trở thành người mở đầu thể loại truyện đồng thoại; Tác phẩm mở đầu lại là đỉnh cao của thể loại, đồng thời là một trong những áng văn học thiếu nhi nổi tiếng thế giới nhất của Việt Nam.