Ước lòng chữ trắng nhẹ tênh...

10:11 28/06/2013

THÁI KIM LAN

Đầu năm 1999, nhà Văn hóa Thế giới ở Berlin gửi xuống Muenchen cho tôi ngót chục bài thơ, nhờ chuyển ngữ sang tiếng Đức cho tuần lễ văn hóa Việt Nam tại Berlin vào cuối tháng 3 năm ấy. Như thường lệ không đắn đo, tôi sốt sắng nhận lời.

Nhà thơ Lê Đạt - Ảnh: internet

Mãi sau này mới biết ra lẽ, cái duyên tại sao mình được chọn: Tác giả những bài thơ là Lê Đạt.

Rồi cuộc dịch thơ trở nên một trận toát mồ hôi, chẳng biết nhà thơ đã làm khổ chữ đến đâu, mà mười mấy năm sau thổ lộ, chữ đã làm khổ nhà thơ đến cả một tạ mồ hôi - chuyện ấy chắc… cũng thường cho Việt Nam nóng bức - còn tôi, chưa bao giờ trong đời đã có một trận dịch bở hơi tai, một trận đụng độ chữ nghĩa cam go đến thế, nhớ lại vẫn còn thấy… ê vai.

Thì có ngờ đâu mà kịp thủ thế - cứ tưởng thơ là thơ trơn lu, thế mà mới đọc là va đầu ngay vào những con chữ kỳ lạ, những cấu trúc ngược, những cạm bẫy của dấu nhấn, chấm phết, xuống hàng, bỏ lững; những chữ ghép ra khỏi mọi quy tắc, những chữ “con” thành “cả”, “đại” thành “tiểu”, “nghiêm mà đùa”, thanh mà tục - chưa thấy một chữ nào thật tục trong thơ Lê Đạt - nhiều con chữ gói cả một nền văn học vào trong, mà khi được chuyển ra ngoại ngữ, nó đánh mất tất cả khối lượng văn chương… Đọc thơ mà như đang rơi giữa thinh không:

Tim ghép ngọt góc cằn xuân bỏ hóa
Máu chửa hoàn hồng tình cả dạy non
Mộng đằng ngà bướm vẫn son ăn mạ
Vô tâm
Hay em ghép quả bồ hòn

                (Ghép tim)

Tuổi lú lẫn ngược nhằm ga trẻ dại
Hay ngây thơ
Không biết lối về già
Tha thẩn chữ ngã ba

                (Ke tuổi)

Rừng buồn bứt lá chim chim
Hỏi sim sim tím
hỏi bìm bim leo
Ước lòng chữ trắng nhẹ tênh cỏ lú
Chín kiếp chuyện đời ú ớ một tên em

                (Cỏ lú)

Trận dịch thơ trở thành một trận chiến truy lùng chữ nghĩa dở khóc dở cười, tôi không biết tác giả ở phương nào để hỏi ông bao nhiêu là câu hỏi, nhưng biết rõ cán cân đã hẳn nghiêng về đâu; cái gậy ảo thuật ngôn ngữ đã hất tung trái cầu dịch thuật: một bên là tự do vùng vẫy bên kia là hai tay bị trói hai lần cấm không được ra khỏi vòng chơi. Ba lần đưa bản dịch thử cho người bạn Đức, ba lần đều nghe trả lời “không hiểu”. Đến lần thứ tư, tôi đành nhắm mắt dịch liều, y như khi lái xe vào Paris, rơi nhằm Place de Concorde, có 16 con đường túa vào nhau nơi bồng binh, nếu đi theo luật và tinh thần phần phải về ta kiểu Đức thì sẽ đụng xe rầm rầm, cho nên muốn thoát thì đành phải nhắm mắt đạp ga theo cảm tính của luật chơi “người sao ta vậy”, có nghĩa, tôn trọng mạng sống là trước hết còn luật là chấp!

Chẳng đặng đừng phải chấp tất thôi, nếu “chữ chơi” thì “chơi” với chữ, mà trong luật “chơi” này trước hết, người chơi phải biết “chơi” thật; có nghĩa tự do, có nghĩa vứt hết mọi điều lệ ngôn ngữ, để nghiêm túc theo chính ngôn ngữ của người đang “ngôn” hay của chính “ngữ ngôn”. Ít nhất tôi đã đổi tư thế của mình - học theo Lê Đạt trong vô thức - nửa phút trước khi quyết định đầu hàng, gửi trả lại nguyên bản, bằng cách bỏ hết tâm trạng nghiêm trọng, tự ái, thả lỏng mình và liều mạng dịch tiếp. Thế mà được việc, kết quả người bạn Đức đã hiểu.

Có điều tôi chắc rằng, nếu bây giờ đọc lại bản dịch - điều mà đã 10 năm nay tôi không làm, thì có lẽ sẽ có… bản dịch khác, không phải đúng, chính xác hơn mà sảng khoái hơn…

Tôi không chắc nhà thơ Lê Đạt đồng ý với tôi, như ông đã từng không để ý đến những phiền toái ấy. Giờ đây chẳng còn dịp để bày tỏ điều này và còn những điều tha thẩn chữ ngã ba khác vẫn là nỗi băn khoăn không dứt của người dịch:

Ví dụ “cái ga xanh ấy sót lại” hay “xót lại”? - tôi đã nhận được hai bản khác nhau gửi đến, do đánh máy sai theo giọng Bắc nhầm “S” và “X”? Dạo ấy tôi hỏi các anh ở Paris bản nào và được xác nhận “sót lại” là đúng theo tác giả và theo bản dịch tiếng Pháp. Tôi cũng đã dịch “sót lại”. Nhưng nếu giờ đây dịch lại thì tôi sẽ dịch “xanh xót lại”:

Đời tốc hành một ga xanh SÓT lại
Một góc tuổi mải tầu thơ dại mãi
Tìm nhà
quên mất số lớn khôn


hay:

Đời tốc hành một ga xanh XÓT lại…

Cái ga xanh ở lại, xanh đến xót xa khi chuyến tốc hành đã vụt qua… Lê Đạt đã đi… đột ngột chuyến tốc hành!

Có phải tự do của tôi là “xót”, bây giờ xót xa, nhưng có một chữ “xót” không?

Hay “sót” và “xót” cũng chỉ là “bóng chữ”?

Nhà thơ sẽ mỉm cười…

Như đã mỉm cười khi gặp tôi ở Berlin (Chúng tôi ở hai chương trình khác nhau tuy trong cùng một tuần lễ văn hóa). Cuộc gặp đơn giản và tự nhiên, không khách sáo, không nồng nhiệt mà bình thường với những nụ cười của Lê Đạt, hiền hòa thấp thoáng trong sảnh đường. Vẻ người đôn hậu “nhà thơ không phải là nhà thơ” hơn dáng dấp ta thường chờ đợi nơi một nhà thơ mà cũng chẳng có chi ngạo nghễ tự hào của kẻ “dissident”. Chúng tôi không đả động gì đến thơ. Nhà thơ không hỏi về chuyện dịch thơ của mình (hiếm hoi lắm) và người dịch cũng không nhắc đến chuyện “toát mồ hôi”. Có lẽ một phần chuyến đi sang Đức đã quá bất ngờ cho một nhân vật của Nhân Văn Giai Phẩm.

Mà cũng có lẽ vì mọi sự bình thường, có gì đâu mà hỏi han!

Tôi mang theo nhiều ấn tượng về tuần lễ Việt Nam tại Berlin, trong đó ấn tượng về buổi gặp nhà thơ Lê Đạt, khá lạ lùng: cái cảm giác sống động được thấy bằng xương thịt một người, nhưng lại nhẹ tênh như sờ một cái “Bóng”. Quả tình Lê Đạt đã là cái bóng đứng đó với cô hướng dẫn viên Brigitte Kraffert, khi tôi thấy lần đầu, so với cường độ mãnh liệt của cuộc chiến với thơ Lê Đạt mà tôi trải qua trước đó.

Mà có lẽ chính vì cái bóng đơn sơ ấy mà có cuộc gặp lại lần hai chăng?

Lần này do tôi chủ động. Hóa ra thơ Lê Đạt đã nằm trong tiềm thức từ lúc nào. Một lần đến Hà Nội, tôi lang thang 36 phố phường. Qua hàng Đào, hàng Đường, đến Lương Văn Can, rồi tình cờ lớ quớ ở một góc đường lao xao những xanh đỏ tím vàng, những giấy là giấy; trùng điệp cửa hàng bán giấy vệ sinh, thùng giấy, xà phòng, khăn tắm… Ơ kìa chẳng là:

Đầu phố Lãn Ông có cửa hàng tạp vặt
Đăng ký số 4210
đứng tên Lê Đạt
Nhớ xưa ba mươi năm
Cửa hàng quan niêm phong
Bút độc quân ông Lành tẩy uế
Tuổi sạch phục hồi bán giấy vệ sinh.


Tôi bắt đầu từ hàng thứ nhất, hỏi một hồi thì tìm đúng cửa hàng Lê Đạt. Người nhà bảo ông đi dạo chưa về. Trở lại lần thứ hai, nhà thơ xuất hiện thật, sau những núi giấy vệ sinh: bỡ ngỡ nhận ra người khách bất ngờ: “Lan đấy hả?”, nỗi ngạc nhiên không quá một tích tắc là đã thấy nụ cười nhân hậu tiếp theo.

Những năm sau mỗi lần đến Hà Nội, tôi thường gặp nhà thơ với các bác các anh chị trong ban biên tập Tia Sáng cùng nhau đi ăn sáng hay ăn trưa. Buổi gặp thường ngắn ngủi, vừa đủ nghe một bản nhạc, trao đổi vài tin tức, vài đề tài, hớp vài ngụm nước trà, hay dừng nơi ly rượu vang. Lần cuối món cừu nướng nơi Viện Goethe, chuyện cũng vu vơ, nhẹ nhàng, chuyện chung chung giữa nhiều người. Nhưng có một lần, giữa câu chuyện chung với nhà báo Văn Thành, đột nhiên nhà thơ Lê Đạt quay sang nói với tôi, trong tư thế của một người đang tranh luận về một đề tài - một đề tài ghiền của tôi, mà nào có bao giờ trao đổi điều chi với nhau. Chứng tỏ nhà thơ đã chuyện trò “không lời” với tôi từ lâu, từ cuộc gặp này sang cuộc khác về cái đề tài ấy, bây giờ mới đi đến lời kết:

Này, điều mà moi thích nhất trong đạo Phật, đó là tu cho được cái tâm bình thường!”, rồi tự gật đầu: “Chính cái tâm bình thường, thật bình thường, mới là điều đáng nói, hay lắm đấy!”

Tôi giật mình nhìn sang nhà thơ, thấy ông đang cười mỉm một mình, và giật mình thêm một lần nữa, bất ngờ nhận ra - chính cái người không bao giờ ngờ đến - chính người ấy lại chỉ cho tôi điều tinh yếu của đạo Phật, rõ nét hơn tất cả những người chuyên cần trong đạo Phật, những Thiền sư, những nhà tu, những Phật tử thông thuộc thiên kinh vạn quyển.

Giữa rừng hỗn mang từ nhà đến chợ, từ chợ đến trường, từ trường đến cấp cao và cấp cao hơn, trong một thời mà những chữ như “hoành tráng”, “làm giàu”, “đại gia”, “hoa hậu”, “anh hùng cứu nước”, “buôn bán nhà đất” hà rầm tràn lan khắp nơi, ai ai cũng tìm cái hơn cái nhất, cái phi thường, cái ưu tú lấn sâu đến tận nhà chùa, nhà thờ như một thứ bệnh thần kinh bên cạnh những thứ dịch cấp tính, thì giữ được cái “tâm bình thường” quả không dễ, lại cần thiết cho cuộc sống an lành đạo đức đến nhường nào.

Chính nhà thơ Lê Đạt đã trực nhận điều ấy bằng nhạy cảm của nhà thơ, và có lẽ suốt cuộc đời Lê Đạt đã “chơi thơ” một cách nghiêm túc trên cái nền Tâm ấy. Đổ hàng tạ mồ hôi bi kịch trên cái “bình thường” ấy để xây Thơ và nhân cách nhà thơ.

Thật sảng khoái để nhận ra: con người ấy trong tận cùng bản chất keo sơn vẫn giữ chất hiền triết Việt Nam, dù thấm đượm tây học.

Chỉ tiếc xót, có thể Lê Đạt sẽ cười và bảo “moi biết rồi”. Tôi chưa kịp thú nhận với chú Lê Đạt rằng, ấn tượng của tôi về “bóng chữ” không còn là ấn tượng về hình hài cá nhân, ngay cả cái bóng cũng là cá thể.

Lê Đạt với cái Tâm bình thường đã hòa nhập làm một, trở nên điều gì phổ quát, đại thể. Mỗi lần gặp, và cảm giác đó đã có thật trong những lần gặp, tôi có cảm giác như đang ngồi dưới mái hiên của ngôi đình rộng thoáng hay trên thềm ngôi chùa không tên, không cần bước vào trong, cũng không cần pho tượng, chỉ ngồi ở hiên mà thấm đượm phong cảnh, trời mây, cả nhân tình thế thái, hong nắng và gió hồn nhiên,… Có thể với ly rượu vang và nhiều hoa, có thể dốc ngược bình, dốc luôn cả bồ chữ văn chương mà vẫn bình an, hài hòa với nụ cười chơi với chữ. Bởi một điều:

Lê Đạt là nhà thơ của thế giới… bình thường, “ước lòng chữ trắng nhẹ tênh”.

...Nhẹ tênh không chữ, thơ Lê Đạt đang mang Lê Đạt rong chơi sáng tạo như tự bao giờ!

T.K.L
(SDB9/6-13)






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • VĨNH CAO - PHAN THANH HẢIVườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Nhưng do những nguyên nhân lịch sử, khu vườn này đã bị triệt giải từ đầu thời vua Ðồng Khánh (1886-1889) và để trong tình trạng hoang phế mãi đến ngày nay. Trong những nỗ lực nhằm khắc phục các "không gian trắng" tại Tử Cấm Thành và phục hồi các khu vườn ngự của thời Nguyễn, từ giữa năm 2002, Trung tâm BTDTCÐ Huế đã phối hợp với Hội Nghệ thuật mới (Pháp) tổ chức một Hội thảo khoa học để bàn luận và tìm ra phương hướng cho việc xây dựng dự án phục hồi khu vườn này.

  • HỒNG DIỆUNhà thơ Cao Bá Quát (1809-1854) được người đời hơn một thế kỷ nay nể trọng, với cả hai tư cách: con người và văn chương. "Thần Siêu, thánh Quát", khó có lời khen tặng nào cao hơn dành cho ông và bạn thân của ông: Nguyễn Văn Siêu (1799-1872).

  • HÀ VĂN THỊNHI. Có lẽ trong nhiều chục năm gần đây của lịch sử thế giới, chưa có một nhà sử học nào cũng như chưa có một cuốn sách lịch sử nào lại phản ánh những gì vừa xẩy ra một cách mới mẻ và đầy ấn tượng như Bob Woodward (BW). Hơn nữa đó lại là lịch sử của cơ quan quyền lực cao nhất ở một cường quốc lớn nhất mọi thời đại; phản ánh về những sự kiện chấn động nhất, nghiêm trọng nhất đã diễn ra trong ba năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới: sự kiện ngày 11/9, cuộc chiến tranh Afganistan và một phần của cuộc chiến tranh Iraq.

  • ĐẶNG TIẾN     (Đọc Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)Một tờ báo ở ngoài nước đã giới thiệu bốn cuốn hồi ức của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp mới xuất bản. Dĩ nhiên là một bài báo không thể tóm lược được khoảng 1700 trang hồi ký viết cô đúc, nhưng cũng lảy ra được những đặc điểm, ý chính và trích dẫn dồi dào, giúp người đọc không có sách cũng gặt hái được vài khái niệm về tác phẩm.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO       (Đọc tập truyện ngắn “Trà thiếu phụ” của nhà văn Hồng Nhu – NXB Hội Nhà văn 2003)Tôi đã được đọc không ít truyện ngắn của nhà văn Hồng Nhu và hầu như mỗi tập truyện đều để lại trong tôi không ít ấn tượng. Trải dài theo những dòng văn mượt mà, viết theo lối tự sự của nhà văn Hồng Nhu là cuộc sống muôn màu với những tình cảm thân thương, nhiều khi là một nhận định đơn thuần trong cách sống. Nhà văn Hồng Nhu đi từ những sự việc, những đổi thay tinh tế quanh mình để tìm ra một lối viết, một phong cách thể hiện riêng biệt.

  • ĐỖ QUYÊN…Đọc thơ Bùi Giáng là thuốc thử về quan niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng là bao, khi bình bàn về thơ họ Bùi. Nhắc về cái tuyệt đỉnh trong thơ Bùi Giáng, độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những đoạn văn chán trong chữ nghĩa Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa…

  • LÊ THỊ HƯỜNGTrong căn phòng nhỏ đêm khuya, giai điệu bản sonat của Beethoven làm ta lặng người; một chiều mưa, lời nhạc Trịnh khiến lòng bâng khuâng; trong một quán nhỏ bên đường tình cờ những khúc nhạc một thời của Văn Cao vọng lại làm ta bất ngờ. Và cũng có thể giữa sóng sánh trăng nước Hương Giang, dìu dặt, ngọt ngào một làn điệu ca Huế khiến lòng xao xuyến.

  • NGÔ MINHĐến tập thơ chọn Giếng Tiên (*), nhà thơ - thầy giáo Mai Văn Hoan đã gửi đến bạn yêu thơ 5 tập thơ trữ tình, trong đó có hai tập thơ được tái bản. Đó là tập đầu tay Ảo ảnh, in năm 1988, tái bản 1995 và tập Hồi âm, in năm 1991, tái bản năm 2000. 15 năm xuất bản 7 đầu sách (2 tập tiểu luận) và đang có trong ngăn kéo vài tập bản thảo tiểu luận nữa, chứng tỏ sức sáng tạo sung mãn đáng nể trọng của một thầy giáo vừa dạy học vừa sáng tác văn chương.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO        (Đọc tập thơ ''Độc thoại trước mặt trời'' của Trần Lan Vinh- NXB Văn học Hà Nội- 2003)Trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại, sự thiếu vắng những cây bút nữ đã trở thành một vấn đề cần được chú trọng. Hầu như mỗi khi phụ nữ cầm bút, điều họ quan tâm nhất đó là sự giải bày tâm sự với ngàn ngàn nỗi niềm trắc ẩn. Nếu viết là một cách để sẻ chia tâm sự thì Trần Lan Vinh là một trường hợp như thế.

  • NGUYỄN THANH TÚMùa đông năm ngoái, anh Đoàn Tuấn từ Hà Nội vào Huế giảng dạy lớp đạo diễn điện ảnh. Dù công việc khá bận rộn nhưng anh vẫn dành cho tôi không ít thời gian tâm sự, bởi ngoài tình cảm thân thiết anh còn là cấp trên của tôi ở toà soạn tạp chí Thế Giới Điện Ảnh. Trong những lần trò chuyện ấy, tôi thật sự bất ngờ khi nghe anh kể chuyện về cuốn sách anh sắp in ở Nhà xuất bản Trẻ mà nội dung của nó là câu hỏi hơn 20 năm nay vẫn luôn canh cánh trong tôi. Vốn dĩ Đoàn Tuấn là nhà biên kịch điện ảnh tên tuổi, anh đã có nhiều kịch bản phim nổi tiếng như: Chiếc chìa khoá vàng (1998), Ngõ đàn bà (1992), Đường thư (2003)...

  • MAI VĂN HOANNguyễn Khoa Điềm đến với thơ hơi muộn nhưng đã sớm định hình một phong cách riêng. Qua các tập Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (2007) ta bắt gặp những suy ngẫm của anh đối với nhân dân, đất nước; những chiêm nghiệm của anh về đời sống xã hội, nhân tình thế thái. Những chiêm nghiệm và suy ngẫm đó được thể hiện bằng một giọng thơ trầm tĩnh, bình dị, sâu lắng và khá hiện đại.

  • NGUYỄN QUANG HÀ       (Đọc Nỗi niềm để ngỏ của Lê Lâm Ứng - Nhà xuất bản Văn học 2002)Đọc thơ Lê Lâm Ứng để tìm những câu mượt mà thì hơi khó. Thảng hoặc lắm mới bắt gặp ở anh tâm trạng thư thái này:                Biết rằng trong cõi nhớ thương                Lạc nhau âu cũng lẽ thường vậy thôi

  • MAI VĂN HOANNguyễn Đắc Xuân không chỉ có chân trong Hội Nhà văn Việt Nam mà anh còn là hội viên Hội Lịch sử Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam... Nhưng dù ở cương vị nào thì điều mà anh tâm huyết nhất vẫn là lịch sử và văn hóa Huế.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG   (Nhân đọc sách "Gió về Tùng Môn Trang" của Nguyễn Xuân Dũng)Tác giả cuốn sách này là một võ sư đệ bát đẳng huyền đai thuộc phái không thủ đạo, vừa là một nhà hoạt động thương trường nổi tiếng ở Mỹ. Nhưng cuốn sách này không hề bàn đến chuyện đấm đá hơn kém hoặc là chuyện mua bán lời lỗ mà bàn về cái TÂM. Tác giả tỏ ra hết sức chú trọng vũ đạo; nhất cử nhất động đều phải xuất phát từ cái TÂM, cái TÂM viết hoa.

  • TRẦN THUỲ MAI            (Đọc Uẩn khúc, tiểu thuyết của Hoàng Văn Bàng, NXB Thuận Hoá 2002)Câu chuyện xảy ra ở một vùng quê không xa lắm, với một tầm mức tai hại không lớn, gây một ảnh hưởng mới xem qua tưởng chừng không đáng kể. Một ông trưởng phòng ở huyện tham ô vài chục triệu thì đã thấm gì so với những câu chuyện động trời hàng ngày trên các báo, mà thủ phạm mang những chức tước lớn lao hơn, với những số tiền khổng lồ tới hàng nghìn tỉ!

  • MAI VĂN HOAN         (Giới thiệu các tác giả thuộc chi hội nhà văn Việt Nam tại Huế)Ngô Minh là một trong những nhà văn Việt Nam ở Huế được Đài truyền hình Cáp Việt Nam chọn giới thiệu tới 45 phút trong chương trình “Người của công chúng”. Tôi cũng được mời nói đôi lời về anh. Với tôi, Ngô Minh là người làm việc “tới số” và chơi cũng... “tới số”!

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNCùng một kiếp bên trời lận đận                  (Bạch Cư Dị - Tỳ bà hành)Nhà văn Bùi Ngọc Tấn vừa cho ra mắt tác phẩm Rừng xưa xanh lá (Mười chân dung văn nghệ sĩ) tại Nhà xuất bản Hải Phòng (1/2003).

  • TÔ VĨNH HÀNhững trang viết sau cùng của một con người luôn luôn là điều thiêng liêng và không bao giờ hết bí ẩn. Vì sao lại dùng từ ấy chứ không phải là chữ kia; đề cập đến cái này chứ không phải là cái khác..? Rất nhiều câu hỏi sẽ đến với người đọc khi trước mắt ta là những ý tưởng hiện hữu sau cùng của một đời người - đặc biệt ở con người vĩ đại như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là cái tên mà mỗi người Việt lúc đọc hay nói, không chỉ diễn đạt một quan niệm gần như vô hạn của nhận thức, mà hơn nhiều thế nữa - là âm sắc tuyệt vời của sự kết tụ những tinh hoa quý giá nhất của trái tim mình.

  • NGUYỄN TỐNGQuê hương đất nước và con người luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau trong suốt chiều dày của lịch sử dựng nước và giữ nước. Nó tự nhiên chan hoà đến mức như cá bơi quẫy giữa đại dương, chim tung cánh vô tư giữa bầu trời bát ngát. Đến lúc nào đó, khi con người rơi vào cảnh cá chậu chim lồng, tình cảm, ý thức về đất nước thiêng liêng mới trở nên ám ảnh day dứt.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ           (Đọc “Thân Trọng Một – con người huyền thoại” của Nguyễn Quang Hà)Đã từ lâu, tên tuổi anh hùng Thân Trọng Một trở nên thân quen với mọi người, nhất là với quân dân Thừa Thiên Huế; những “sự tích” về ông đã thành truyện “truyền kỳ” trong dân chúng và đã được giới thiệu trên nhiều sách báo. Tuy vậy, với “THÂN TRỌNG MỘT – CON NGƯỜI HUYỀN THOẠI”, lần đầu tiên, chân dung và những chiến công của ông đã được tái hiện một cách đầy đủ và sinh động nhất.