Tuyên ngôn biến cải thơ

08:37 05/05/2017

G.M. PALMER

Các nhà thơ thân mến.
Thơ đương đại đang bệnh. Nó đang giẫy chết trên giường viện dưỡng lão và chúng ta nên rời khỏi cái thây khó chịu của nó trước khi mùi hôi thối của hậu môn giả (colostomy) và thuốc xoa bóp bắp thịt khiến mình đần ra. Dù sao thì chúng ta cũng không có tên trong chúc thư.

G.M. Palmer - Ảnh: internet

Từ hình ảnh cái thây của nó tôi giả định một đường hướng mới cho thơ. Bởi vì từ thế kỷ vừa rồi chúng ta đã bị trói buộc trong một phương cách nghẹt thở của sáng tạo, sản xuất và đề bạt thơ. Thí dụ điển hình: Các nhà thơ nghệ thuật giả tạo (artsy) viết toàn là loại vất đi không hiểu được; những tạp chí nghệ thuật giả tạo với số xuất bản bé tí teo in thơ (Thơ có mức phát hành khoảng 30,000 - tại sao chúng ta lại muốn thơ mình trong đó? Không phải vì chúng ta cần độc giả), không ai đọc những xuất bản hay những bài thơ, và đường dây xuất bản, dựa trên sơ yếu lý lịch (curriculum vitae), chấp nhận việc làm của những nhà thơ nghệ thuật giả tạo, nơi họ dạy những người khác một cách không ấn tượng rằng thơ đọc được thì tai hại và phân của những nhà thơ đó là loại hoa hồng duy nhất đáng để ngửi.

Thay vào đó, tôi giả định, những cách giải quyết sau đây:

Để thay đổi cách làm, đọc, và nghĩ đến thơ. Điều này có nghĩa rằng thay đổi sản phẩm, phân phối và cách chấp nhận thơ đương đại. Tôi sẽ giải quyết từng vấn đề một.

1. Sản phẩm.

Để thay đổi sản phẩm, chúng ta cần phải quay về phía thơ kể truyện. Đây là một việc làm dễ dàng, vì gần như hầu hết thơ ngày nay đều là thơ trữ tình. Gần như không ai làm thơ hay xuất bản thơ kể truyện nữa. Riêng điều này có thể giải thích được trạng thái bên lề của thơ đương đại vì người ta yêu thích truyện kể. Họ cần có chúng. Họ trả cả tỉ đô la mỗi năm cho điện ảnh, cáp truyền hình, tiểu thuyết, và trò chơi điện toán chỉ để được kinh qua truyện kể. Nhưng họ lại không nhìn đến thơ. Tại sao? Thơ có thể kể truyện với một sức mạnh làm thay đổi sinh lý hóa học của độc giả hay làm người nghe vừa vặn theo với nhịp điệu của câu thơ. Không có thứ gì khác có thể làm được thế. Nhưng người ta không nghĩ đến thơ vì thơ không còn kể truyện nữa; nó thôi không còn làm việc giải trí; nó đã biến thành nghệ thuật vị nghệ thuật chết cho chính nó. Khi chúng ta làm ngơ với thơ kể truyện để chuộng thơ trữ tình, chúng ta đã tước đi lớp khán thính giả tự nhiên của thơ.

Một phần lý do là sự bất cân bằng ngày nay giữa thơ trữ tình và thơ kể truyện. Thơ trữ tình là thơ miêu tả đối tượng, cảm xúc, và những ý niệm trừu tượng. Thí dụ từ “Sonnet CXXX’ của Shakespeare cho đến “Ode on a Grecian Urn” của Keats, đến “Ash Wednesday” của Eliot, “Just Walking Around” của Ashbery. Thơ kể truyện là thơ kể một câu chuyện - từ “Annabel Lee” của Poe đến “The Death of the Ball Turret Gunner” của Jarrell, “The Colonel” của Forche đến “Odyssey” của Homer.

Theo truyền thống, thơ có sự quyến rũ lớn nhất và rộng rãi nhất khi có sự cân bằng giữa trữ tình và kể chuyện. Ngày nay không còn thứ cân bằng ấy nữa. Trên những trang các tạp chí thơ quan trọng, bạn sẽ thấy có nhiều chữ đẹp đẽ và gần như không có câu chuyện nào hết. Tháng qua tháng, tam cá nguyệt qua tam cá nguyệt, các nhà xuất bản đưa ra nhiều biến thiên khác nhau của cùng ý tưởng và tự hỏi tại sao con số phát hành vẫn kém. Độc giả được lôi kéo tới những câu chuyện bằng một cách mà những sự miêu tả và tự suy diễn không bao giờ sánh được. Sức mạnh của thơ kể truyện khiến họ đọc và dạy họ cách đọc thơ như thế nào đó để họ có thể tận hưởng cả hai, thơ kể truyện và trữ tình. Khi không có một lượng dồi dào của thơ kể truyện để lôi cuốn độc giả, sự quan tâm đến thơ sụt giảm.

Trong khi sự chú ý quá đáng vào thơ trữ tình không phải là vấn đề duy nhất của thơ đương đại, nó còn để cho các nhà thơ bỏ qua, không phải chỉ riêng có cấu trúc của kể truyện mà còn là bất cứ cấu trúc nào khác. Trong khi làm thơ kể truyện, chúng ta không nên rơi vào bẫy bố trí bởi bọn hiện đại và giăng ra bởi bọn thơ ngôn ngữ - rằng làm sao bài thơ nói về điều gì lại quan trọng hơn điều bài thơ nói ra. Chính lối chú ý vào hình thức và tính vô hình thức này được trả bằng cái giá nội dung, đã đẩy lùi độc giả đọc thơ. Chúng ta có thể tránh cái bẫy này bằng cách ủy thác thơ kể truyện của mình vào năm điểm:

Thơ của mình phải:

- rõ ràng
- theo thứ tự thời gian
- dễ nhớ
- bằng ngôn ngữ bình thường
- đem chúng ta lại gần nhau.

Để cho thơ của mình rõ ràng, nó phải dò được ngay lần đọc đầu tiên. Điều này không có nghĩa là thơ của chúng ta không thể phức tạp. Đúng vậy, nó phải là như thế trừ khi chúng ta muốn là thứ nhà thơ không hồn nào đó. Nhưng sự phức tạp chỉ là một phần của toàn thể bức tranh. Nếu không có người nào có thể hiểu được thơ của chúng ta mà không có cái nhẫn giải mã (decoder ring), chúng ta đã làm sai. Hầu hết độc giả đều không thích giải mã thơ - họ chỉ muốn một câu truyện hay. Nếu có một truyện hay, họ sẽ đọc. Nếu nó có thể bị lột và lột, phơi ra những lớp như hồng- nhiều-cánh-mỏng (multifoliate rose) của Eliot, thì chúng ta đã làm việc tốt.

Để cho thơ của mình có thứ tự thời gian, nó phải dính dáng tới những người đang làm việc và trang trải và sống và chết ngay bây giờ. Nó không nên dựa vào ám chỉ huyền thoại hay kinh nghiệm cá nhân mà củng cố nơi hiện tại. Những ma quái và thần thánh cá nhân có thể quan trọng và dính dáng tới bài thơ-đang-làm nhưng không có ý nghĩa thì không thể làm cho chúng dính líu tới độc giả.

Để cho thơ mình dễ nhớ, nó phải đẹp, cả trong âm thanh lẫn hình ảnh. Nếu chúng ta không làm thơ với một cái tai dành cho âm thanh ra sao khi đọc lớn, không phải là chúng ta làm thơ. Hơn nữa, nếu hòa âm, chữ đẹp đẽ của mình không có ý nghĩa gì cả, chúng ta đang viết nhạc, không phải làm thơ. Thơ là sự sắp thành đường thẳng (syzygy: ngày mà mặt trời mặt trăng trái đất sắp gần như một đường thẳng tạo nên hiện tượng nhật thực hoặc nguyệt thực, gọi là ngày sóc vọng) của hình ảnh, âm thanh và thể thơ - cả ba phải cân bằng để có được một bài thơ. Chúng ta cũng phải phấn đấu để làm sao cho bài thơ vang trong tai độc giả của mình. Chúng ta nên tự hỏi mình và hỏi những độc giả đầu tiên “Câu nào trong bài thơ này dễ nhớ?” Rồi chúng nên làm việc với con chữ của mình cho đến khi những câu thơ dính chặt trong đầu độc giả như móc ngoặc trong một bài hát phổ thông.

Để bài thơ của mình vào ngôn ngữ bình thường, nó phải được viết theo cách chúng ta nói. Tại sao chúng ta lại tránh những tiêm nhiễm trong thơ? Tại sao chúng ta đi theo nghịch đảo cổ hủ hay ngôn ngữ văn chương trên giấy? Không có người nào nói như vậy cả - và vì thơ qua nhiều cách là một tuyệt mỹ của lời nói, chúng ta phải phản ánh và làm toàn mỹ mẫu mã ngôn từ. Thính giả nên nghe thơ của chúng ta và tự nói “đây là cách tôi nói chuyện.”

Để thơ đem chúng ta lại gần với nhau, nó phải thăng hoa. Đây không phải nói rằng chúng ta không thể giải quyết được những chủ đề khó hay sâu sắc hay phiền muộn, hoàn toàn ngược lại. Điều mà thơ nên làm là trình bày những chủ đề khó khăn bằng cách nào đó mà hy vọng được đưa ra cho thế giới. Nên nhớ rằng “The Waste Land,” với tất cả những ảm đạm âm ỉ của nó, kết thúc bằng sự cầu nguyện tất cả rồi sẽ tốt đẹp. Thơ không thể thăng hoa nếu nó chỉ biết tự ngắm nhìn cái rốn của mình (self-referential navel-gazing). Những bài thơ duy ngã, giả dối, và bí hiểm chỉ làm độc giả nhầm lẫn, lúng túng, và đẩy họ ra xa.

2. Phân phối.

In ấn không chết. Tuy nhiên, nó đã bị tẩy não. Năm ngoái có ít hơn ba triệu tập thơ đã bán được (blog này được viết năm 2008 - chú thích của người dịch). Những nhà xuất bản dòng chính có lý khi bỏ qua nó. Hơn nữa, các nhà in nhỏ được trợ cấp hoàn toàn bởi các trường đại học, niên bổng chánh phủ, và/hoặc là các giải thi. Điều này có nghĩa, họ chịu ơn tổ chức và xuất bản những bài thơ huyền bí hàn lâm. Họ không để ý gì đến việc tiếp cận, công chúng, hay đề bạt những gì họ xuất bản vì sự sống còn của họ không tùy thuộc vào những điều này.

May mắn thay, chúng ta còn mạng toàn cầu, một phân đoạn độc hại của xuất bản đối với giới hàn lâm - nhưng chúng ta không cố gắng để được nhiệm kỳ (giáo sư đại học), chúng ta cố gắng thay đổi thơ. Mạng toàn cầu mang lại cho chúng ta một cách phân phối thơ dễ hơn trong thể thức tự nhiên của nó - như phát thanh. Chúng ta có thể làm ra những video với bản viết kèm theo để đọc, kẹp bản mp3 đọc trong những trang mạng - gần như có nhiều cách vô tận trên mạng để mang thơ trở lại là thứ mà nó nên là - một thứ gì đó vừa nghe hay vừa có nghĩa hay.

Nếu bạn lo lắng rằng xuất bản trên mạng có nghĩa là chúng ta sẽ không được trả tiền cho thơ của mình hay có thể kiểm soát quyền sở hữu, thì bạn chỉ cần nhìn đến các trang homestarrunner.com, xkcd.com hay giantitp.com. Những nơi này hoàn toàn ủng hộ các nhà sáng tạo qua cách phân phối nội dung sáng tác. Người ta sẽ trả tiền cho nội dung hay. Giống như In Rainbows của Radiohead, phân phối nội dung không lấy tiền có nghĩa là càng có nhiều người biết đến tác phẩm của bạn. Nếu tác phẩm của bạn hay, họ sẽ tìm cách để thưởng công - mua áo t-shirts, bấm nút cho tiền biếu tặng qua Paypal, v.v… Bất cứ hình thức trả tiền không theo truyền thống nào cũng đều (nhiều) hơn tiền tác quyền trả bởi các nhà xuất bản thơ. Strong Verse có lẽ là một nhà xuất bản trên mạng duy nhất trả tác giả ($10 một bài) và tạp chí The New Yorker, nhà xuất bản thơ trả tác quyền thơ cao nhất, $150 cho mỗi bài thơ. Cho phép độc giả trả tiền trực tiếp tác phẩm của chúng ta sẽ, ngay cả khi ta chỉ có vài độc giả đếm được trên tay, dễ dàng vượt xa những món tiền trả trước. Nhưng đừng lo lắng về tiền bạc, hãy lo lắng về tác phẩm và độc giả của bạn.

Có năm chỗ phát hành lớn trên mạng cho thơ:

Emails - Điện thư
YouTube
Blogs - Tự Biên
Forums - Diễn Đàn
Websites - Trang
mạng

Điện thư là cách giản dị và có hiệu năng để đem thơ của chúng ta đến với mọi người. Biết bao nhiêu chuyển đi-đến (forwards) ta nhận được trong một ngày? Mặc dù chúng ta không đọc hầu hết thư chuyển đến, điều gì xảy ra nếu một trong thư chuyển ấy là những câu mở đầu của bài “The Charge of the Light Brigade”? Chúng ta sẽ tiếp tục đọc? Chúng ta sẽ bỏ qua? Một bài thơ hay chắc chắn là hay hơn một chuyện về việc làm thế nào Barack Obama không nói lời tuyên thệ trung thành với tổ quốc (pledge) hay làm thế nào anh em họ của ai đó làm ra tiền bằng cách chuyển đi “cũng cái điện thư này!” Nếu chúng ta làm một bản liệt kê những người liên lạc với mình và gởi họ bài thơ, họ có thể giữ nó hay vất đi, nhưng mà chúng ta có thể làm vui bạn bè và thân quyến với những con chữ của mình. Chúng ta không nên ngăn chặn họ cái cơ hội yêu mến điều chúng ta nói ra.

YouTube rất quý giá cho thơ vì chúng ta có thể khai thác sức mạnh vô song của YouTube để phân phối thơ trong dạng thức nguyên thủy tinh hoa. Thị ảnh kèm theo có thể bất cứ gì - chúng ta đang đọc, một phông với chữ, một “video thơ” - không có vấn đề gì. Điều quan trọng là YouTube cho phép chúng ta mang những bài thơ lớn đến với tâm trí công chúng. Nếu người ta xem một người cha đang hát cho lũ trẻ theo nhịp điệu của “Canon in D” thì họ sẽ nghe một bài thơ viết hay, rung động - và chuyển đến bạn bè.

Chúng ta mỗi người nên có một blog-tự biên (tôi có hai). Chúng ta nên bình luận và để lên blogs của mình và chuyển đến người khác, đánh dấu trang mạng (digg - Social bookmarking websites) v.v. Chúng ta cũng nên tìm những blog thơ khác và bình luận, liên lạc với tác giả, và trình bày ý kiến của mình. Nếu chúng ta không liên lạc với thế giới những nhà thơ, chúng ta không thể nào thay đổi được thơ - và nếu chúng ta không liên lạc với công chúng độc giả, chúng ta sẽ không bao giờ thuyết phục được họ rằng thơ đã đổi thay.

Chúng ta nên đề xướng thơ kể truyện gần gũi trên các diễn đàn thơ. Nhưng chúng ta phải cẩn thận trong một thế giới đầy chiến tranh khói lửa để không phải lâm trận hay tự vệ chống lại bọn thui chột ngu dốt. Chúng ta không thể để bị kẹt trong những bàn cãi vô ích - nếu rõ ràng rằng những người trong diễn đàn không để ý gì đến điều ta nói, đấy là lúc nên từ giã không buồn ngó lại.

“Trang mạng” bao hàm rất nhiều chỗ. Thể loại này có thể được chia ra thành những trang mạng liên kết (networking websites) - như myspace.com, meetup. org, và facebook.com; những trang mạng xuất bản (publishing websites) - bất cứ trang nào như strongverse.org cho đến nytimes.com; trang mạng chọn lọc (filterwebsites) như digg.com reddit.com; và trang mạng cá nhân.

Với trang mạng liên kết như myspace.com, chúng ta có thể tìm được những tác giả hay, cùng ý tưởng với mình và cho họ thấy rằng thế giới không hoàn toàn chống lại họ. Chúng ta cũng có thể phân phối thơ của mình tới bạn bè, đặc biệt với sự khuyến khích, chuyển đến bạn bè của họ. Nếu chúng ta có thể làm cho thơ lý thú giống như một bản thống kê, chúng ta đào trúng vàng rồi đấy.

Trang mạng xuất bản là một thể loại, hay hơn hết, là chia ra trang mới và trang đã thiết lập từ lâu. Chúng ta nên tự làm ra trang mạng xuất bản của mình để kiểm soát trực tiếp phần phân phối và đề xướng tác phẩm của mình. Những trang đã thiết lập từ lâu, như Strong Verse Loch Haven Review có thể đáp ứng với tác phẩm và phê bình. Những trang truyền thông lớn như nytimes.com National Review Online sẽ lưu ý đến bất cứ nội dung nào mang lại người sử dụng mới đến cho người đăng quảng cáo trên mạng của họ.

Digg.com, reddit.com, và del.icio.us là những trang mạng cho phép người sử dụng phổ biến nội dung bằng cách chia sẻ và bình chọn những trạm thú vị. Những trang mạng chọn lọc này là dụng cụ rất tốt trong việc quảng bá. Nếu bạn có một trang mạng cá nhân hay làm việc biên tập cho một trang mạng xuất bản, thêm vào nút nhấn trên trang mang cho digg reddit sẽ giúp tăng phần hiển thị cho bạn. Một cố gắng tập trung bởi ngay cả vài chục độc giả cũng liên kết được thơ của chúng ta trên những trang này - và đôi khi có người nào đó kích vào đường nối và tìm thấy một bài thơ đẹp, rõ ràng, kể chuyện, chúng ta sẽ có thêm một độc giả.

Dĩ nhiên, những trang mạng cá nhân, trang của bạn với tên của bạn - gmpalmer. com (không hẳn là tôi đã làm gì với trang của mình…). Những trang này nên có tiểu sử với đường nối và những bài thơ mà chúng ta đã xuất bản (chúng ta nên phân phối nội dung mới theo những đường lối kể trên). Những trang này thích hợp nhất để truyền bá thông tin và triết lý - kiểm soát được những gì chúng ta nói và tin tưởng trước khi người khác làm (mà chúng ta không kiểm soát được).

3. Nhìn nhận.

Một khi tác phẩm của chúng ta đã bắt đầu có chỗ đứng trong thế giới độc giả và tác giả, chúng ta có thể bắt đầu đưa vào kinh điển, đấy là, chính thức nhìn nhận thơ kể truyện rõ ràng. Đây sẽ là một tiến trình khó khăn, như một phần rất lớn của đặc tính Hiện Đại là giảm giá nền thơ kể truyện dễ gần mọi người.

Kinh điển hóa đạt được bằng hai cách khác nhau. Đầu tiên là bằng bản văn - bài phê bình, bài viết hàn lâm, v.v… Thứ hai là bằng vị trí - đăng trên học phẩm, dẫn đầu thực tập, v.v.

Việc kinh điển hóa bắt đầu với những khen ngợi giản dị về tác phẩm của chúng ta và phân phối nó đến số lượng người đọc càng rộng càng tốt. Sau những bắt đầu này, chúng ta có thể viết và gợi ra những phê bình về tác phẩm của mình. Phê bình nên được xem qua bằng hai cách. Thứ nhất, chúng ta nên cố gắng phê bình tác phẩm lẫn nhau trên mạng và trên tạp chí in. Đây là một chiến thuật cốt lõi của tất cả mọi phong trào văn chương. Chúng ta cũng nên tìm cách để tác phẩm được phê bình bởi những nhà phê bình có tiếng. Điều này sẽ gia tăng cả hai, tính chính thống và hiện diện của tác phẩm. Sau phê bình sẽ là văn bản hàn lâm. Những bản văn này đi từ tiểu luận đại học không chính thức cho đến luận án, nghị luận, và những sách của lý thuyết phê bình. Mặc dù chúng ta không có kiểm soát nào hết ở điểm chót nêu trên, chúng ta có thể ảnh hưởng được bạn bè đang còn học hướng về mình kiếm tài liệu nghiên cứu.

Song song với những hình thức bản viết để đưa vào kinh điển này là việc liên hệ bao gồm trong hội nghị và thực tập, những vị trí trong các khoa giảng dạy đại học và hội đồng chọn lựa sách giáo khoa, và liên hệ bao gồm trong sách giáo khoa và hội đồng hình thành hợp tuyển. Ở đây, chúng ta có thể trực tiếp ảnh hưởng đến cả hai, tác giả và độc giả qua một cách trực tiếp hơn. Kinh điển hóa là một mục đích rất xa, hẳn nhiên, nhưng bất cứ bước nào ta có thể bước - từ viết phê bình cho đến dạy những người khác để bước vào những hội đồng sách giáo khoa sẽ là vô giá.

Tôi biết, tất cả điều này sẽ là rất nhiều việc. Nhưng nếu bạn không hài lòng với những bài thơ vô hồn được tán tụng là mới mẻ - nếu bạn muốn làm việc để thơ còn dính dáng với hai trăm triệu người Hoa Kỳ đang đọc, gởi điện thư cho tôi, và hãy bắt đầu bàn luận với nhau xem cách nào để làm cho được việc này.

Điểm Thọ dịch
(TCSH338/04-2017)




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • TRẦN THÙY MAI.Năm giờ sáng, máy bay chở chúng tôi đáp xuống sân bay Incheon. Giọng nói ngọt ngào của nữ tiếp viên vang lên với lời cảm ơn và câu chào tạm biệt, sau khi báo một thông tin làm chúng tôi ớn lạnh: Nhiệt độ bên ngoài là 4 độ C...

  • ĐẶNG NHẬT MINHLà một thương cảng của Nhật Bản, nhưng Fukuoka lại được nhiều người biết đến như một thành phố của nhiều hoạt động văn hoá mang tầm quốc tế. Tôi có duyên nợ với thành phố này từ năm 1991 khi được mời tham dự Liên hoan phim quốc tế Fukuoka lần thứ nhất với bộ phim Bao giờ cho đến tháng 10.

  • PHẠM XUÂN PHỤNGChữ tea trong tiếng Anh là do dùng mẫu tự La -tinh để ký âm chữ trà (âm Hán Việt) mà người Trung Hoa nói rất rõ là chè. Lâu nay cứ tưởng chè là tiếng thuần Việt hoặc là biến âm của trà, hóa ra chè lại là từ gốc của trà. Mẹ mà nhầm là con, vui thật.

  • BÙI NGỌC TẤNLần đầu tiên đặt chân tới Châu Âu, có biết bao nhiêu ấn tượng. Ấn tượng về những nét mặt người, về những dáng người đi, về bầu trời không vẩn bụi trong veo, về những xa lộ, về những chiếc xe phóng với tốc độ 140 kilômét không một tiếng còi, nối nhau trên các con đường tám đến mười làn xe chạy không còn biên giới cách ngăn...

  • NGUYỄN VĂN DŨNGCó người nói Praha đẹp hơn Paris . Tôi không tin. Nhưng bây giờ thì tôi thấy nhận xét ấy không phải không có căn cứ. Praha là thành phố cổ kính nguyên vẹn nhất châu Âu, là “thành phố của trăm tháp vàng”, là “bài thơ bằng đá”, là khúc hát đắm say, là cốc rượu nồng nàn, là bức tranh tuyệt mĩ, là mảnh thời gian còn sót lại... Năm 1992, Praha được công nhận là di sản văn hoá thế giới.

  • PHẠM THỊ CÚCCó người nghĩ rằng, ở các nước giàu, thì ít người thất nghiệp. Không đâu, ở Pháp, người thất nghiệp cũng khá nhiều, mà đâu phải vì không có bằng cấp mà thất nghiệp, đa số họ đều có bằng kĩ sư, cử nhân, cả thạc sĩ hẳn hoi.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGAmazon là tên khu rừng lớn nhất thế giới. Amazon cũng là tên con sông, theo khảo sát mới đây, là con sông dài nhất thế giới. Amazonas, quê hương của hai Amazon kia, là bang rộng nhất trong 26 tiểu bang của Brasil - rộng hơn cả diện tích của nước Anh, Đức, Pháp, Ý cộng lại. Còn Manaus, là kinh đô của Amazonas miên man núi rộng sông dài.

  • NGUYỄN VĂN DŨNG    Tôi thật sự xúc động khi đứng trước ngôi mộ của Lý Tiểu Long. Trước đây tôi hình dung nơi an nghỉ cuối cùng của anh phải là một ngôi đền cực kỳ tráng lệ cho xứng với tên tuổi lẫy lừng của anh. Sau khi anh mất, một tờ báo ở Sài Gòn hồi đó viết đại loại trong thế kỷ XX, anh là một trong ba nhân vật nổi tiếng nhất châu Á.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGVới Phật giáo, Linh Thứu là ngọn núi thiêng. Sau khi thành đạo, một thời gian dài Linh Thứu là trú xứ của đức Phật và các đệ tử của Ngài. Tại đây Ngài đã giảng kinh Pháp Hoa và nhiều bộ kinh quan trọng khác. Linh Thứu còn là nơi khởi phát dòng Thiền Ấn Độ để rồi từ đây hạt giống Thiền được gieo trồng khắp nơi trên trái đất.

  • PHẠM PHÚ PHONGTrong lịch sử đất nứơc Trung Hoa có sáu nơi được chọn làm thủ đô, theo thứ tự Lạc Dương, Tây An, Nam Kinh, Khai Phong, Hàng Châu và Bắc Kinh là thủ đô thứ sáu, tồn tại cho đến ngày nay. Bắc Kinh đầu tiên là kinh đô của nước Yên, nên còn gọi là Yên Kinh, sau đó đến thời Minh Thành Tổ cho xây dựng trở thành Bắc Kinh ngày nay. Với diện tích 18.826 km2, Bắc Kinh rộng gấp 18 lần so với thủ đô Hà Nội, được mệnh danh là thành phố bốn nhiều: nhiều người, nhiều xe, nhiều cầu vượt, nhiều di tích...

  • Từ một trại lính đầy vết đạn ở vùng California (Hoa Kỳ) đã xuất hiện một tu viện Phật giáo - Tu viện Lộc Uyển - do nhà sư gốc Huế - Thiền sư Thích Nhất Hạnh - gầy dựng. Tại đây, ảnh hưởng của Thiền học Việt Nam đã tạo được một sự chuyển hóa đầy thử thách: biến trung tâm luyện tập bắn súng trở thành thiền đường đầy ánh sáng và tình thương, có ảnh hưởng rất lớn đối với nhiếu người ở Hoa Kỳ.Sông Hương xin giới thiệu bài viết của Teresa Wattanabe đã đăng trên tờ Los Angeles Times, tờ nhật báo lớn hạng ba của Hoa Kỳ, với bản dịch của Làng Mai và ảnh của Nguyễn Đắc Xuân để giới thiệu với bạn đọc như một dòng chảy của văn hóa Phật giáo xứ Huế.

  • TRẦN THÙY MAICác quan chức ngành khí tượng Nhật Bản đã cúi gập mình xin lỗi toàn dân: Hoa anh đào sẽ nở ngày 23 thay vì 16 - 3 như dự báo. Đến sân bay Narita vào đúng sáng 24, tôi tự nghĩ mình đến rất kịp thời, nên khi cậu cảnh sát làm thủ tục nhập cảnh hỏi về mục đích đến Nhật, tôi đã không ngần ngại trả lời chắc nịch: “Ngắm hoa anh đào”. Cậu cảnh sát khoanh cái rụp vào lời khai của tôi và “OK” ngay với một nụ cười trên môi.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGNằm giữa trung tâm bán đảo Iberia, thủ đô Tây Ban Nha trải rộng trên các ngọn đồi dưới chân rặng Sierra de Guadarrama, ở độ cao 640m so với mặt nước biển - là thành phố cao nhất châu Âu. Diện tích 607 km2. Dân số gần 4 triệu người.

  • KEVIN BOWEN
    (Giám đốc WJC)

    LTS: Trong 25 năm qua tên tuổi nhiều nhà văn, nhà thơ của Trung tâm William Joiner (Đại học Massachusetts - Hoa Kỳ) như Kevin Bowen, Fred Marchant, Nguyễn Bá Chung, Lady Borton, Martha Colline, Bruce Weigl, Lary Heinemann... đã xuất hiện trên Sông Hương cũng như trên nhiều báo chí văn nghệ, văn hoá trong nước với những tác phẩm tâm huyết, mến yêu đất nước Việt Nam cũng như những hoạt động trên các lãnh vực giao lưu văn hoá, giúp đỡ y tế, giáo dục cho Việt Nam sau chiến tranh, như những biểu hiện của sự ân hận, tủi hổ với những gì mà đất nước họ đã gây ra trên mảnh đất này.

  • NGUYỄN BÁ CHUNG

    Tháng 10 năm 2007 đánh dấu 25 năm thành lập trung tâm Joiner. Nhưng với tôi, nó đánh dấu một đoạn đường 20 năm nổi chìm với trung tâm, trong đó có 15 năm làm thiện nguyện và 10 năm cuối cùng làm việc chính thức. Hai mươi năm là một thời gian dài đủ để nhìn lại, ghi lại một số kỷ niệm và rút ra một số kinh nghiệm để nhìn tới đoạn đường phía trước.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNHoạt động yêu nước ở miền Nam từ những năm sáu mươi của thế kỷ trước, tôi không lạ gì nước Mỹ. Thuở ấy, Phan Ch. anh bạn vong niên của tôi làm phiên dịch ở cơ quan MACV ở Huế từng bảo tôi “Người Mỹ giống như một cậu bé con nhà giàu nhưng thiếu lễ độ”.

  • VÕ QUÊNhận lời mời của Hội đồng quốc gia vì nghệ thuật truyền thống Hoa Kỳ (National Council for the Traditional Arts), đoàn nghệ sĩ thuộc Hội Văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế đã tham dự Festival dân ca dân nhạc tại thành phố Lowell, bang Massachusetts, Hoa Kỳ từ ngày 25-7-1995.

  • NGUYỄN XUÂN THÂMChúng tôi đến Aten vào cuối tháng chín, mà buổi trưa vẫn còn oi bức như bao trưa miền biển ở Việt . Thanh Tùng và tôi loay hoay mãi vẫn không bắt được taxi để chuyển tiếp đến sân bay nội địa.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGSau Cali tôi định đi Dallas, nhưng rồi chuyển hướng, tôi lên Seattle theo vẫy gọi của bạn bè. Ai ngờ cái thành phố nầy dịu dàng, xanh và đẹp đến vậy. Hèn chi người ta gọi nó là “Thành phố ngọc bích” ( Emerald City ), hay “Mãi mãi xanh tươi” ( Evergreen State ).

  • PHẠM THƯỜNG KHANHĐầu năm nay khi biết tôi chuẩn bị đi công tác Trung Hoa, em gái tôi, một người thơ gọi điện từ Huế ra bảo: “Anh cố gắng mà cảm nhận vẻ đẹp rực rỡ của văn minh Trung Hoa. Hình như với bệ phóng vững chắc của nền văn minh hàng ngàn năm ấy, người Trung Hoa đang có những cuộc bứt phá ngoạn mục và trong tương lai dân tộc này còn tiến xa hơn nữa”. Là một quân nhân, tôi đâu có được trí tưởng tượng phong phú và trái tim dễ rung động như em tôi, nhưng 10 ngày trên đất nước Trung Hoa đã để lại trong tôi những ấn tượng thật sâu đậm.