Ảnh: phunuonline.com.vn
Ba tập thơ ra đời - thời gian ngót gần hai mươi lăm năm chứ nào ít ỏi gì, ngần ấy nó cũng vừa đủ cho kẻ tóc xanh lấm tấm sương muối gieo lên tóc. Nhưng với nhà thơ, hạnh phúc nào hơn “làm con chim... ngứa cổ hót chơi” (Xuân Diệu). Cho dù Võ Kim Ngân có Nhọc nhằn gieo từng luống chữ. Câu thơ trao gởi phận mình, thì đấy cũng là cách nhà thơ luyện thanh để làm nên sức sống của một dòng chảy - của một đời sông! Mây xám ngang trời/ Sông chờ mùa lũ/ Cây chuyển mùa đón đợi phù sa/ Đón đợi mùa hoa trái mới… (Viết lúc sang mùa). Đọc thơ Võ Kim Ngân từ cái thời những bài thơ đầu tiên đăng trên các báo cho đến bây giờ Ngân đã thu hoạch bao mùa hoa trái mới. Cũng từ những mùa màng đó, tôi rút ra một lẽ khá tự nhiên, rằng những ai muốn chia tay, muốn từ giã cái gì cũng đều có thể được, nhưng không dễ gì chia tay, từ giã chính mình. Và, phải chăng cái phẩm tính cố cựu đó mới là cái ốc đảo chon von của mỗi nhà thơ, vốn như là sự lựa chọn có tính tất mệnh để thể hiện những ưu tư về mình. Em người đàn bà/ bình thường trên trái đất/ mọi yêu ghét lo toan/ ngày đêm vẫn đến… (Người đàn bà bình thường). Đọc lướt qua những câu thơ nghe tưởng chừng nhẹ tênh như thế, tôi chợt liên tưởng đến một nhà thơ nữ khác thuộc lớp đàn anh đàn chị “Tôi bây giờ sống tu thân/ Sống cam phận nhỏ chia phần yên vui” (NC). Trời đất! Chỉ là những “phận nhỏ”, những “người đàn bà bình thường” không thôi, ấy thế mà nếu trống vắng những bóng dáng ấy ta biết tìm đâu ra “Ngàn bếp lửa chiều chống chọi hoàng hôn” (NT). Không hợp với những motif cầu kì qua hình thức thể hiện, câu chữ thơ Võ Kim Ngân giống như nhặt lên trên con đường quen một mách bảo của mùa màng do sự va đập của thời gian mà bùng vỡ một ý niệm nào đó về tình yêu, về thân phận: Có lúc trong ta đồng vắng/ Ngổn ngang mùa mới gặt xong/ Rạ rơm tơi bời gió cuốn/ Đất khô chưa ải bơ phờ (Có lúc). Tôi vốn sợ những tiếng gào to kiểu sức “phi thường”, mà nói như Hoài Thanh: nghe lạ, chạy ra xem hóa ra chẳng có gì. Võ Kim Ngân dường như xa lạ với thứ thanh âm đó. Thơ Ngân là tiếng nói nhỏ nhẹ nồng nàn của một tâm hồn đa cảm: Em không phải là dây/ Đòi buộc ngang ngọn gió/ Em không phải là lưới/ Vớt vội bóng mây qua… (Em). Cũng có thể nói nghệ thuật trong thơ Ngân là thứ nghệ thuật trong trẻo nuôi dưỡng ấu thơ mãi mãi sức sống tươi xanh. Ấu thơ ở đây là “Sơ sinh phát tiết muộn lời/ Tâm hồn như lộc trang đời như điên” (B.G), nghĩa là đừng nhuộm bất cứ màu sắc nào lên một tâm hồn trong trẻo nguồn mạch ấy. Những chú còng biển nghìn năm sau vẫn mãi mãi ngự trị lên đại dương sức sống hồn nhiên thơ dại của mình! Biển xanh vỗ sóng tràn bờ cát/ Những con còng nhẫn nại đợi sóng xô/ Sóng thời gian rồi cuốn trôi tất cả/ Có chú còng gương mắt đại dương (Sóng thời gian). Vậy đấy, những chú còng biển nghìn năm vẫn thế, dẫu rằng: Điều xưa cũ tưởng như trái đất/ Lại tinh khôi như thể mới ban đầu/ Những xưa cũ như mùa xuân lặp lại/ Đang gieo mầm tách vỏ những giấc mơ (Em xin lỗi). Vâng, có những điều thật xưa cũ như “quê quán tôi xưa”, vậy mà cái con đường làng tuổi thơ, cái cánh đồng tuổi thơ... tất thảy trở thành vô tận, mênh mông trước mỗi bước bàn chân tìm lại kí ức của mình Đồng mùa thu ngún lửa/ Khói bốc lên che phủ chân trời/ Màu vàng óng chập chờn sương khói/ Tiếng ai cười vương trong hàng cây (Cánh đồng mùa thu). Cũng chẳng rõ Võ Kim Ngân “Viết lúc sang mùa” là bắt đầu từ bao giờ đến bao giờ, có điều nhiều lúc vì nghe Tiếng ai cười vương trong hàng cây ấy, tôi cũng trẻ thơ ra, chạy trên những cánh đồng vô tận đuổi bắt gọi lạc giọng ngày xưa quay về! Chớm thu 2010 N.N.T (261/11-10) |
Trên tạp chí Kiến thức ngày nay số 839 ra ngày 01-12-2013 có đăng bài Kỷ niệm về một bài thơ & một câu hỏi chưa lời giải đáp của Nguyễn Cẩm Xuyên. Vấn đề nêu lên rất thú vị: đó là cách hiểu chữ giá trong bài thơ Cảnh nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài thơ này trong nguyên văn chữ Nôm không có tên gọi. Những người soạn giáo khoa đã căn cứ vào nội dung đặt tên cho bài thơ là Cảnh nhàn và đã được đưa vào giảng dạy trong nhà trường trước đây.
Ký ức về những tháng ngày mải miết hành quân trên đất Campuchia, những phút giây nén lòng nhớ về quê hương, gia đình… vẫn chưa bao giờ nhạt phai trong tâm thức những người cựu chiến binh Đoàn 367 đặc công-biệt động trong kháng chiến chống Mỹ năm xưa.
LÊ VIỄN PHƯƠNG
(Nhân đọc Thơ Việt Nam hiện đại, tiến trình & hiện tượng của Nguyễn Đăng Điệp, Nxb. Văn học, 2014)
Cuốn Minh triết Việt trong văn minh Đông phương của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh nhằm mục đích góp phần làm sáng tỏ cội nguồn văn hiến của dân tộc Việt qua sự phân tích những di sản văn hóa truyền thống bằng các phương pháp mang tính khoa học.
17 chân dung các nhà học thuật Việt Nam thế kỷ 19 và 20 qua các tiểu luận nghiên cứu ẩn dưới dạng thức tùy bút của Đỗ Lai Thúy đủ sức vẫy vào nhận thức người đọc hôm nay những vỡ lẽ mới.
Giáo sư hy vọng độc giả cũng cảm thấy như mình khi đọc "Lòng người mênh mang" bởi các trang viết chứa đựng những sự thật không thể chối cãi.
Tác giả Phạm Xuân Hiếu sử dụng vốn sống, kiến thức về văn hóa, cổ vật khi viết những truyện ngắn trong sách "Cây đèn gia bảo".
LÊ HUỲNH LÂM
Có một bạn trẻ hỏi rằng: làm thế nào để viết thật hay? Tôi nói như phản xạ, trước hết tác giả phải có đời sống văn chương.
NGỌC THANH
Có một nhà thơ, nhà hoạt động cách mạng đầy nhân cách đi ra từ Huế song rất ít người ở Huế biết tới, đó là Trần Hoài Quang - nguyên Trung đoàn phó và chính trị viên Trung đoàn Nguyễn Thiện Thuật (E95), nguyên Phó ban Tuyên huấn Thừa Thiên, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Tuyên Quang và Bí thư Tỉnh ủy Hà Tuyên… Ông hiện có một người con trai đang ở Huế.
“Như vậy đó, hiện đại và hoang sơ, bí ẩn và cởi mở, giàu có và khó nghèo chen lẫn, đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) hiện lên trước mắt ta, ngồn ngộn sức sống”. Nhà báo, nhà văn Phan Quang đã thốt lên như vậy cách đây gần 40 năm, khi ông lần đầu đặt chân đến vùng đồng bằng châu thổ. Những điều ông viết về ĐBSCL ngày ấy - bây giờ còn tươi mới tính thời sự, lan tỏa và trường tồn với thời gian.
ĐẶNG HUY GIANG
Thói quen, nói cho cùng, là sản phẩm của quá khứ, là những gì lặp đi lặp lại, không dễ từ bỏ.
Hơn cả một nhà văn, Tô Hoài đã, đang và sẽ luôn là người bạn đường thân thiết của độc giả thuộc mọi lứa tuổi...
BÍCH THU
(Đọc Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức, Nxb Văn học, 2007)
Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức là cuốn sách tập hợp những ghi chép và nghiên cứu về nhà văn Tô Hoài, một tác gia lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Đây là cuốn sách đầu tiên kết hợp hai phương diện ghi chép và nghiên cứu, góp một cách tiếp cận đa chiều và cập nhật về con người và sự nghiệp của nhà văn.
Tô Hoài, trong hơn 60 năm viết, thuộc số người hiếm hoi có khả năng thâm nhập rất nhanh và rất sâu vào những vùng đất mới. Đây là kết quả sự hô ứng, sự hội nhập đến từ hai phía: phía chuẩn bị chủ quan của người viết và phía yêu cầu khách quan của công chúng, của cách mạng.
Phát hành tập thơ "Khi chúng ta già" sau scandal với Phạm Hồng Phước, tác giả Nguyễn Thị Việt Hà khẳng định thơ mình không cần ăn theo sự kiện gì.
Tác giả Tử Đinh Hương thực hiện bộ sách "Biểu tượng" với mong muốn khám phá, lưu giữ và khuyến khích trẻ nhỏ quan tâm hơn đến thế giới xung quanh.
Sách được các sư cô Thiền viện Viên Chiếu lược dịch, biên soạn từ nhiều nguồn tư liệu, chủ yếu là tư liệu chữ Hán, tiếng Anh, giúp người đọc hiểu thêm con đường tu tập của pháp sư Huyền Trang.
Soạn tâm thế an nhiên khi bước vào tuổi già, nhẹ nhàng đón đợi niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống... là điều mà trang viết của vị bác sĩ mê văn thơ đem đến cho độc giả.
Phó giáo sư Đỗ Lai Thúy thông qua cuốn sách "Vẫy vào vô tận" đã giới thiệu 17 chân dung các nhà văn hóa, nhà nghiên cứu có đóng góp cho con đường học thuật và tư tưởng của đất nước.
BỬU NAM
Nguyễn Quang Lập - Trần Thùy Mai - Ngô Minh - Phạm Tấn Hầu - Nguyễn Quang Vinh - Hoàng Thị Duyên(*)