NGUYỄN THỊ TỊNH THY
1. Từ thập niên 90 của thế kỉ XX, nhà văn Trần Duy Phiên đã sáng tác nhiều tác phẩm mang đậm tư tưởng sinh thái mà tiêu biểu là bộ ba truyện ngắn viết về côn trùng Kiến và người (KVN), Mối và người (MVN), Nhện và người (NVN).
Trang đầu của truyện ngắn "Kiến và Người" - Ảnh: internet
Đây là một hiện tượng khá đặc biệt, thể hiện sự nhạy cảm của nhà văn đối với một vấn nạn mang tính toàn cầu - vấn nạn môi trường; góp phần khỏa lấp mảng trống của dòng văn học này trong văn học Việt Nam thời kì đổi mới và hội nhập quốc tế.
2. Trong văn học quá khứ, dù nhà văn có trân trọng, có yêu thiên nhiên thiết tha đến mấy, miêu tả thiên nhiên đẹp đẽ, thơ mộng và hùng vĩ đến mấy cũng chỉ để tỏ cái tình, cái tài, cái trí, cái chí của người cầm bút. Thiên nhiên chỉ là khách thể của văn chương, là phương tiện, công cụ, thủ pháp, ký hiệu, đối tượng… để trữ tình, thể hiện, ẩn dụ, ám chỉ, tượng trưng cho thế giới nội tâm và đặt trưng nhân cách của con người. Các nhà văn sinh thái phản đối sự đối xử thuần lợi ích, thuần công cụ đối với tự nhiên như thế. Đặc trưng hạt nhân của văn học sinh thái là kiên quyết bài trừ những thái độ công cụ hóa và phương pháp hóa đối với tự nhiên. Từ góc nhìn sinh thái, bài viết sẽ làm rõ tư tưởng sinh thái của nhà văn Trần Duy Phiên trong KVN, MVN, NVN ở những bình diện sau: giải cấu trúc quan niệm “nhân loại trung tâm”, phê phán sự bóc lột tự nhiên và cảnh báo nhân loại về nguy cơ sinh thái, lí giải mạch ngầm văn bản và nghệ thuật tự sự.
2.1. Giải cấu trúc quan niệm “nhân loại trung tâm”.
Sau các phong trào Phục hưng, Khai sáng và đặc biệt là với sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật thế kỉ XX, nhân loại tự cho mình có đặc quyền chinh phục và tước đoạt tự nhiên. Lí luận hiện đại cho rằng, toàn bộ thế giới được kiến tạo xung quanh một hạt nhân, một trung tâm duy nhất, ấy là chủ thể - con người. Người ta cho rằng “con người là trung tâm của thế giới”, “con người là tinh hoa của muôn loài”, và coi việc chinh phục tự nhiên là một phương thức khẳng định sức mạnh và địa vị của con người trong vũ trụ. Các nhân vật chính trong KVN, MVN, NVN cũng vậy.
Mở đầu KVN, người kể chuyện khẳng định: “Quá nửa đời, bố cháu không chịu thua ai”. Ông quyết định bán nhà ở thị xã, dắt díu vợ con lên cao nguyên đốn cây, vỡ đất. Chỉ vụ mùa đầu tiên, thành quả lao động đã có, “bố cháu vui, say khướt. Bố huênh hoang kỳ công tạo dựng cơ ngơi”.
Cậu Bảy trong MVN cũng khiến những thanh niên trí thức đến tham quan trang trại của cậu thán phục. Tốt nghiệp kĩ sư năm hai ba tuổi, đẹp trai, lịch lãm, đàn giỏi hát hay. Bị vợ bỏ, cậu lên cao nguyên lập trang trại nuôi gà. Trại gà của cậu Bảy có đến hai mươi ngàn con. Quy trình khép kín, chế biến thức ăn, chăm sóc, chủng ngừa, nhặt trứng, giao nhận hàng hóa... chỉ cần hai người là cậu Bảy và già Nu. Một chủ, một tớ. Giờ đâu, việc đó. Người nào, việc nấy. “Quan trọng thứ nhất: ăn uống. Thứ hai: nghỉ ngơi. Thứ ba: khai thác thiên nhiên”. Khai thác như thế nào? Tương kế tựu kế. Mối là loài côn trùng “đặc sản” của cao nguyên. Sau mỗi đêm mưa, chúng lao vào bóng đèn như những con thiêu thân. Đèn được thắp sáng khắp trang trại, hai mươi ngàn con gà đều mập lên nhờ ăn mối mỗi đêm. Mùa mưa ở cao nguyên kéo dài cả nửa năm. Vậy là hai mươi ngàn con gà có một lượng thức ăn bổ béo cả nửa năm mà cậu Bảy khỏi cần tốn tiền của và công sức để lo cho chúng. “Rừng nuôi mối. Mối nuôi gà. Gà nuôi cậu”. Mọi việc đâu ra đó, thu nhập ổn định, lối sống phong lưu. Tất cả là nhờ vào trí tuệ của cậu Bảy. Bốn người khách của cậu Bảy, trong đó có một kỹ sư chăn nuôi, đều trầm trồ thán phục. Đối với họ, cậu Bảy là “bậc kì tài kinh tế”.
Trần Việt Chiến trong NVN là “con ngựa chiến”. “Ai cũng thừa nhận như thế, kể cả những người không ưa anh”. Chiến là thần đồng, là “ánh sao”, là “tiến sĩ hạng tối ưu”. Chiến còn hát hay, giỏi vẽ và hùng biện. Là người hoàn hảo như thế, anh nghĩ mình sẽ dễ dàng thắng con nhện cái mang bọc trứng chui vào tá túc trong mùng của mình. Anh cố giam cho nó chết đói. Việc đó đối với anh dễ như một trò chơi mà không cần động thủ.
Tuy nhiên, các nhân vật của Trần Duy Phiên đều bại trận trước những con côn trùng bé nhỏ. Kiến, mối, nhện đều khiến họ phải thất bại, kinh hãi, lao đao. Ngay khi dương dương tự đắc về cơ ngơi mình vừa tạo dựng, người đàn ông “không chịu thua ai” (KVN) đã phải đối đầu với đàn kiến khổng lồ trả thù vì lãnh địa của chúng bị xâm phạm. “Đàn kiến rải quân khắp nơi”, ngoài vườn rẫy, quanh miệng giếng, trên trần nhà, dưới mặt đất... “Kiến đặc như mè đen”, dày như trấu, rải đều như cát. Ông hạ quyết tâm: “Tao sẽ tận diệt nhà nó không sót một mống!”. Nhưng bọn kiến bao vây, cô lập gia đình ông. Người của công ty Bảo vệ vật nuôi cây trồng của tỉnh đến giải cứu nhưng không thể vượt qua bức tường kiến. Cả gia đình đơn độc tìm kế thoát thân trong nỗi kinh hoàng tột độ. Trước khi tháo chạy, với đòn trả thù “cá chết thì lưới rách”, ông đã châm lửa đốt ngôi nhà của mình, biến cơ ngơi mà ông tự hào thành tro bụi cùng với lũ kiến.
Cậu Bảy thông minh (MVN) và các vị khách luôn ngưỡng mộ, thán phục cách chăn nuôi của cậu cũng không ngờ có hôm lại rơi vào tình huống oái oăm. Sau buổi tiệc chia tay, mọi người say ngủ, lúc tỉnh dậy họ mới phát hiện trên mình không có một mảnh vải che thân. Đêm qua, mối đã “tập kích nghiến sạch, không còn một sợi chỉ”. Áo quần, giường chiếu, tủ kệ, vách nhà, vật dụng, hành trang... của chủ lẫn khách đều tất tật hóa thành mùn bủn. Mọi người hoảng loạn, các cô gái xấu hổ bỏ chạy vào rừng, các chàng trai thu mình trong nhà. Tình thế thật đáng cười ra nước mắt. Bọn mối - những con mồi bé nhỏ đã thể hiện sức mạnh của mình. Chúng khiến cho con người khôn ngoan và mạnh mẽ bị vô hiệu hóa hoàn toàn.
Con ngựa chiến Trần Việt Chiến (NVN) thích thú với ý nghĩ mình đang giam hãm, đang nắm quyền sinh, quyền sát con nhện bé nhỏ. Trước chuyến công tác xa, anh tấn kĩ bốn góc mùng, hy vọng ngày trở về sẽ nhìn thấy xác nhện. Nhưng không, con nhện không những không chết mà còn đẻ một bọc trứng. Chiến bực bội muốn bứt tung mạng nhện, bóp nát bọc trứng. Nhưng khi đưa tay lên mạng nhện, anh phát hiện có một lỗ thủng ở góc mùng phía sau những sợi tơ nhện mảnh mai. Muỗi bị sa vào cái bẫy đó, và nhện không bị đói. Xưa nay đã đặt bẫy thì phải có mồi nhử. “Nhưng mồi đâu mà nhử? - Anh hỏi rồi nhìn xuống người mình. Hèn gì! - Chiến giật mình”. Hóa ra, vị tiến sĩ kiêu ngạo này đã trở thành con mồi lớn để nhện ta nhử lũ muỗi vào và có của ăn của để. Phát hiện này là một đòn knock out đối với Chiến.
Có một sự đảo lộn vị trí rất ghê gớm giữa chủ thể và khách thể trong ba truyện ngắn trên. Con người - đều là những người “không chịu thua ai”, “kì tài”, “ngựa chiến” - đã bị đánh bại bởi những sinh vật bé nhỏ bậc nhất trong thế giới tự nhiên. Nếu xem con người là chủ thể, là trung tâm, có quyền uy và sức mạnh tối thượng như quan niệm xưa nay thì đã xảy ra “cái chết của chủ thể”, sự “lệch tâm” và “tản quyền” của con người. Quan niệm con người là trung tâm của vũ trụ, là chủ nhân của hành tinh này, là động vật bậc cao nhất và có độc quyền thống trị tất thảy là một “đại tự sự” cần phải được xóa bỏ. Trong cuộc đối đầu với con người, những côn trùng trong KVN, MVN, NVN, đã phải khiến những con người ngang bạt phải kính sợ tự nhiên. Họ sợ trí tuệ, sợ sức mạnh, sợ cơn cuồng nộ của tự nhiên bởi “tự nhiên là trung tâm”, nhân loại chỉ là một phần của thế giới tự nhiên - “nhân loại phi trung tâm”. Nhà văn Trần Duy Phiên đã giải cấu trúc quan niệm “nhân loại trung tâm” đầy thâm thúy như thế.
2.2. Lên án sự bóc lột tự nhiên và cảnh báo nguy cơ sinh thái.
Từ việc coi trọng trí tuệ của tự nhiên, sức mạnh của tự nhiên từ những sinh vật nhỏ nhoi nhất; chùm truyện ngắn của Trần Duy Phiên đã lên án các hành vi tước đoạt tự nhiên, phá vỡ cân bằng sinh thái và cảnh báo nhân loại về các nguy cơ sinh thái.
Người mẹ trong KVN cứ rối bời với câu hỏi: “Nhà mình trước đây chắc có thâm thù chi với kiến?”. Và bà đã nhận ra nguyên nhân của thảm họa kiến: “Đất rừng của chúng, đâu phải của mình”. Người bố thì cực đoan hơn, ông giải thích: “Vì năm nay ta được mùa... Hễ có của là có đứa dòm”. Vậy là hai người có hai quan điểm khác nhau khi nhìn về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, mà cụ thể là gia đình họ và đàn kiến. Người vợ cho mình là kẻ xâm phạm, là tội đồ; người chồng thì ngược lại, cho mình là kẻ bị xâm phạm, là nạn nhân. Thậm chí, trong cách nhân hóa đầy hằn học của ông, có thể thấy ông đã áp đặt định kiến về thế giới loài người cho loài vật. Từ nhận thức khác nhau, hành động của hai người tất yếu sẽ khác. Người vợ van xin: “Phải cúng vái, cầu đảo ông ơi!... Chúng đông mà mình thì ít, phải nhịn may ra”. Người chồng thì hung hăng: “Ông sẽ không chừa cho một mống nối nòi!”. Một bên muốn nhượng bộ, một bên muốn tấn công hủy diệt. Và cuối cùng, người “không chịu thua ai” buộc phải chịu thua kiến. Từ chỗ nghênh ngang, hiếu thắng, ông sợ hãi, lo lắng, bật khóc, tháo chạy, điên dại. Sau khi đốt nhà, đốt luôn cả lũ kiến, cả gia đình tả tơi chạy về thị xã. “Thắng một trận lớn, tan hoang cửa nhà”. Mất mát không chỉ dừng ở đó. Người mẹ chết. Theo lời người kể chuyện: “Mẹ cháu chết vì nọc kiến. Ba lần bị kiến phủ, đủ lượng độc khiến tim mẹ cháu thôi đập”. Người bố trở thành “người điên đáng kính nhất thị xã” sống nhờ vào hai đứa con nhỏ đi ăn xin. Người kể chuyện và một đứa em gái lớn thì lang thang, phiêu bạt. Và kiến trở thành nỗi ám ảnh suốt đời đối với cậu.
Cách thức lợi dụng và bóc lột tự nhiên của con người trong MVN thật đơn giản, thật nhẹ nhàng mà hiệu quả thì không nhỏ chút nào. Cậu Bảy rất am hiểu tự nhiên. Và cậu vận dụng sự hiểu biết đó để thu lợi cho mình. “Cậu không khai chiến với đồng loại... Cậu hướng cuộc chiến đấu của mình vào thiên nhiên. Khai thác về cho mình và đồng loại”. Chỉ cần đầu tư một lần thắp sáng trại gà bằng điện, cậu có thể điềm nhiên thu lợi suốt đời, vì cậu biết “bao giờ đất không cây thì rừng hết mối”. Mối thay khoảng bốn mươi phần trăm thức ăn cho gà. Và tham vọng của cậu không dừng lại ở đó. Cậu “đang nghĩ cách tăng lượng thu vào mùa mưa, trữ qua mùa khô. Gà có mối quanh năm. Lượng thức ăn chế biến sẽ giảm hơn nữa”. Nhưng dù đa tài, đa trí, đa mưu, cậu Bảy không thể lường trước được khả năng tấn công phục thù của đàn mối. Mối trở thành một thảm họa sinh thái, và sẽ là nguy cơ sinh thái mà cậu sẽ phải gánh chịu trong tương lai. Già Nu hối hận: “Đất này nguyên là giang sơn của mối. Ông Bảy đặt trại, cho máy ủi bằng, cày nát ụ đống mồ mả tổ tiên nhà chúng. Đã thế, ông còn dùng đèn nhử chúng để làm mồi nuôi gà. Ngày ấy ông Bảy nghe tôi chọn cuộc đất bên kia, làm sao có cái họa hôm nay”.
Người đàn ông trong KVN phát điên, cậu Bảy trong MVN thì lại rất tỉnh táo. Lực lượng của mối rất đông qua cuộc tập kích càng cho cậu thêm hy vọng, vì qua đó có thể thấy nguồn thức ăn cho gà vẫn còn rất dồi dào. Cậu Bảy tuyên bố: “Cuộc chiến đấu đang tiếp diễn và còn lâu mới kết thúc... tính sổ đến nay chúng tôi vẫn thắng”. Tuy nhiên, sự tự tin đó chỉ có ở cậu Bảy. Người kể chuyện khẳng định trận này con người “đại bại” và e sợ “rồi một ngày thiên nhiên sẽ khai thác trở lại”. Cô bạn của anh cũng dự báo: “Chúng nó sẽ biến sản nghiệp này ra gò đất bùn”. Nỗi lo sợ xuất phát từ sự trải nghiệm kinh hoàng tác động đến nhận thức của các nhân vật, buộc họ phải thay đổi thái độ và cách ứng xử với tự nhiên để tránh đi những thảm họa sinh thái trong tương lai.
Kết cục đầy bi kịch trong KVN, bi hài kịch trong MVN là tiếng nói lên án sự bóc lột tự nhiên và cảnh báo nguy cơ sinh thái mà các tác phẩm của Trần Duy Phiên chuyển tải đến người đọc. Để cất lên tiếng nói ấy, nhà văn phải có một tầng sâu trong nhận thức với triết lý về tự nhiên và tư duy sinh thái. Điều đó tạo nên mạch ngầm của văn bản. Và mạch ngầm ấy được thể hiện thông qua nghệ thuật tự sự mang “dấu vân tay” của nhà văn.
2.3. Mạch ngầm văn bản và nghệ thuật tự sự.
Cả ba truyện ngắn KVN, MVN, NVN đều thể hiện trí tuệ, nhận thức và cách ứng xử của con người đối với thế giới tự nhiên. Các nhân vật đều tự tin vào trí tuệ, năng lực của mình. Đặc biệt là năng lực chiến thắng tự nhiên. Người bố trong KVN xem thường tự nhiên, cho mình có quyền xâm lấn và tiêu diệt tự nhiên nếu tự nhiên cản trở đến đời sống của mình. Cậu Bảy trong MVN lại coi trọng tự nhiên, nhưng cụ thể là coi trọng món lợi kếch xù và vô tận mà mình có thể khai thác, cưỡng đoạt từ tự nhiên. Trần Việt Chiến trong NVN thì nghĩ rằng tự nhiên là “đồ ngu” so với loài người. Tất cả các nhân vật đều mắc sai lầm về nhận thức. Sai lầm trong nhận thức chính là nguyên nhân của nguy cơ sinh thái. Soi chiếu bằng triết học Lão Trang, chúng ta có thể hiểu hơn ẩn ý của nhà văn trong mạch ngầm văn bản.
Triết học Lão Trang, mà rõ nhất là Đạo đức kinh của Lão Tử từng chủ trương coi thường trí tuệ: “Trí tuệ xuất, hữu đại ngụy” (Trí tuệ xuất hiện, sinh ra vô vàn điều giả dối). Theo Lão Tử, càng biết nhiều, người ta càng ham muốn nhiều, có nhiều khả năng thỏa mãn dục vọng và không “tri túc”. Không có trí tuệ nào của con người có thể sánh kịp với “trí tuệ của tự nhiên”. Trí tuệ của con người là thứ trí tuệ xuất phát từ dục vọng. Dục vọng khiến con người “làm” (vi) rất nhiều, “làm” vì “tư dục”. Đó là một trong những mầm mống của loạn. Vì vậy mà Lão Tử chủ trương “vô vi”, phản đối “hữu vi”, nhưng ông chỉ phản đối “làm” những gì trái với tự nhiên để hướng tới “làm” những gì thuận theo tự nhiên. Đạt được điều đó, con người mới có trí tuệ cao nhất, bởi vì “trí tuệ cao nhất là nhận thức và hành động hợp với đạo tự nhiên”(2).
Từ triết học Lão Trang, có thể thấy các nhân vật trong ba truyện ngắn trên đều không có trí tuệ đích thực. Sai lầm nghiêm trọng của họ là ở quan niệm “nhân loại trung tâm”, là tạo nên mặt trái của văn minh từ sự không “tri túc”. Sai lầm đó đã khiến “con ngựa chiến” Trần Việt Chiến ngã ngựa, khiến người “không chịu thua ai” phải tan cửa nát nhà, khiến “bậc kì tài” phải/sẽ tiêu tan sự nghiệp. Vì vậy, chỉ có thể thông qua việc giải cấu trúc triệt để “chủ nghĩa nhân loại trung tâm” mới làm giảm đi sự nguy hại đối với tự nhiên và đồng thời cũng là sự nguy hại đối với nhân loại.
Các nhà sinh thái học cho rằng mỗi hành vi, phẩm chất, thành quả của con người đều phải được xem xét trong mối quan hệ với tự nhiên, trong thái độ đối với tự nhiên. Như vậy, tự nhiên trở thành thước đo giá trị của con người. Từ góc nhìn này, có thể trả lời được thắc mắc của các nhân vật trong MVN về việc vì sao một thanh niên hoàn hảo như cậu Bảy mà lại bị vợ bỏ. Trong khi vợ của cậu chỉ là “một người con gái bình thường, nhan sắc tầm tầm”. Theo các nhà sinh thái học, sự áp bức của con người đối với tự nhiên bao giờ cũng liên quan và đi kèm với sự áp bức của con người đối với con người trong xã hội. Sinh thái học độ sâu (deep ecology) cho rằng nguồn gốc của nguy cơ sinh thái là do con người và tự nhiên bị phân làm hai, sinh thái học chủ nghĩa nữ quyền (eco - feminism) cho rằng thảm họa sinh thái xuất phát từ “chủ nghĩa nam giới trung tâm”, sinh thái học xã hội (cocial ecology) cho rằng nguồn gốc của mọi đổ vỡ của giới tự nhiên là do các vấn đề chính trị có liên quan đến thể chế của tư bản chủ nghĩa. Hiểu được điều nay, ta sẽ hiểu được vì sao người con gái “tầm tầm” ấy lại tự nguyện chia tay với người chồng “kì tài”. Nguyên nhân xã hội của nguy cơ sinh thái, những bất ổn trong quan hệ giữa con người với tự nhiên, con người với con người trong MVN, KVN, NVN đều có thể giải mã được từ cách hiểu này.
Tư tưởng sinh thái trong truyện ngắn của Trần Duy Phiên được chuyển tải qua nghệ thuật tự sự độc đáo từ nhan đề, người kể chuyện, không gian cho đến ngôn ngữ, giọng điệu… Tất cả tạo nên một sự ám ảnh rợn người khiến độc giả không thể không có cái nhìn khác đi về thế giới quanh ta.
Cả ba tác phẩm đều có cùng một cấu trúc nhan đề theo kiểu “A và B”: Kiến và người, Mối và người, Nhện và người. Ngắn gọn, đơn giản nhưng các nhan đề đều hàm chứa tư duy sinh thái. Về mặt ngữ pháp, quan hệ từ “và” có vai trò kết nối hai yếu tố đẳng lập. Về mặt ngữ nghĩa ngữ dụng, với mục đích nhấn mạnh một yếu tố trong giao tiếp, người sử dụng có thể đặt yếu tố đó lên trước. “Kiến”, “Mối” và “Nhện” được đặt ngang hàng với “người”. Hơn nữa, chúng nằm ở vị trí ưu tiên, trước con người. Vậy nên, qua nhan đề, có thể thấy thái độ tôn trọng tự nhiên của nhà văn. So sánh với Ông già và biển cả của Ernest Hemingway - tác phẩm ngợi ca trí tuệ, ý chí và sức mạnh của con người, có thể thấy sự khác biệt rất lớn. Ông già và biển cả (The Old Man and the Sea) cũng có cấu trúc ngữ pháp như các truyện của Trần Duy Phiên, nhưng “Ông già” (The Old Man) đứng trước, “Biển cả” (the Sea) đứng sau. Sắp xếp vị trí như thế không phải nhằm mục đích đề cao tự nhiên.
KVN, MVN được kể ở ngôi thứ nhất với điểm nhìn bên trong của người kể chuyện trải nghiệm. Đó là những “cái tôi” thức tỉnh, phản tỉnh sau một phen kinh hoàng từ hiểm họa của tự nhiên. Hình thức kể này càng làm tăng độ xác tín của câu chuyện, tác động mạnh đến nhận thức của người đọc về sức mạnh của tự nhiên. NVN lại được kể ở ngôi thứ ba với hai kiểu điểm nhìn. Đầu truyện, người kể chuyện “thượng đế” khẳng định và chứng minh chất “ngựa chiến” của Trần Việt Chiến từ điểm nhìn bên ngoài, rất khách quan. Từ khi Chiến phát hiện ra con nhện trở đi, điểm nhìn tự sự được dịch chuyển vào bên trong nhân vật. Anh quan sát con nhện và chờ đợi nó chết mòn từ sự giam hãm của anh. Con nhện vẫn ngày qua ngày “an nhiên”, “ngang nhiên tồn tại”, “lì lợm sống” và còn “đẻ”. Chiến thì từ “rủa thầm”, “thích chí”, “ngứa mắt”, “chờ đợi”, “hong hóng”, “nôn nao”, “háo hức”, “hả hê”, đến “giật mình”. Điểm nhìn bên trong cho thấy từng bước nhận thức và tỉnh ngộ của Chiến. “Tính ác” và khí chất ngạo mạn trong anh tiêu tan, chỉ còn sự kính sợ tự nhiên chiếm ngự. Bút pháp đòn bẫy là một “trò chơi” độc đáo trong nghệ thuật tự sự của cả ba truyện ngắn. Các truyện đều mở đầu bằng sự tán dương giá trị của con người. Tạo cho người đọc hy vọng về những chiến công của họ. Nhưng thật bất ngờ, họ thảm bại trước những sinh vật nhỏ nhoi nhất. Chúng lật đổ giá trị người một cách ngoạn mục theo kiểu “châu chấu đá xe”, gây cho người trong cuộc nỗi khiếp sợ, thán phục và ám ảnh rất lớn. Bút pháp đòn bẫy đã làm nên những cuộc tấn phong và hạ bệ đầy trớ trêu và sâu cay đối với con người, giá trị người.
Ngôn ngữ kể, tả và bình luận của cả ba truyện ngắn đều rất đa biến, giàu hình ảnh. Ngôn ngữ của KVN rất giàu chất cảm giác. Kiến hiện diện khắp nơi, đặc quánh trong không gian, ken dày trong thời gian của quá khứ, hiện tại và tương lai. MVN gây ấn tượng rùng rợn bởi sự miêu tả với những hình ảnh ngập ngụa mục bủn do đàn mối tàn phá. Ngôn ngữ bình luận của các nhân vật lại gợi mở nhiều quan niệm sống, quan niệm ứng xử với môi trường tự nhiên. NVN hấp dẫn bởi thứ ngôn ngữ kể linh hoạt, tươi tắn, hài hước để cuối cùng “lật tẩy” những hạn chế, hạn định, hạn tri của con người trong thế giới kỳ thú này.
Trong KVN, MVN có sự đối thoại giữa các nhân vật tạo nên chất đa thanh, đa giọng điệu cho tác phẩm. NVN cũng có đối thoại, nhưng là đối thoại trong độc thoại của nhân vật chính - “vi đối thoại”. Đối thoại của ba tác phẩm không đơn thuần dừng ở cấp độ đối đáp mà thực chất là thể hiện sự đối lập về lập trường tư tưởng của nhân vật. Khi diễn tả tư tưởng nghĩa là đối thoại đã đạt đến tầm của những diễn ngôn. Vì vậy trên thực chất, đối thoại trong KVN, MVN, NVN là diễn ngôn của tư tưởng sinh thái. Sức lan tỏa, sức lay động, sức thuyết phục của các tác phẩm có được chính là nhờ diễn ngôn mang tầm thời đại, tầm nhân loại này.
3. Văn chương sinh thái đề cao thế giới tự nhiên không phải để phủ định một cách triệt để địa vị và tác dụng của con người mà chỉ hy vọng hạn chế những dục vọng quá lớn của con người cùng những suy nghĩ và hành động phi lí, phi nhân của họ đối với tự nhiên. Bộ ba truyện ngắn KVN, MVN, NVN của Trần Duy Phiên cũng vậy. Trong bối cảnh văn học nước ta gần như đang bàng quan trước những tổn thất do thiên tai, những hành động tàn phá môi trường mà cả dân tộc và nhân loại đang phải đối mặt và gánh chịu, những tác phẩm trên của Trần Duy Phiên thật cần thiết và có ý nghĩa. Chúng đáp ứng được tính tất yếu và tính cấp thiết, đáp ứng yêu cầu thời đại, tâm thức thời đại; thể hiện sự gắn bó thiết thực đời sống văn chương với đời sống xã hội; phát huy trách nhiệm của nhà văn trong việc bảo vệ môi trường và ngăn chặn các nguy cơ sinh thái.
N.T.T.T
(SH317/07-15)
.................................................
(1) Viên Hà, Sinh thái phê bình: Định nghĩa, phát triển xu hướng cập tại Trung Quốc đích tiếp thụ, http://www.yilin.com
(2) Lại Quốc Khánh, Quan niệm về “trí tuệ” trong triết học Trung Quốc thời kỳ Tiên Tần, http:// www.inas.gov.vn
HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.
BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.
MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.
NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.
ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.
NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.
TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...
NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.
MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.
TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.
HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.
TRƯƠNG ĐĂNG DUNG Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.
ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).
NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.
LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.
NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.
AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.
TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!
PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.