Từ Đốc học Hà Nội đến Tế tửu Quốc Tử Giám Huế - Khiếu Năng Tĩnh (1833-1915), một nhà giáo dục lớn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX

15:45 05/02/2010
ĐINH XUÂN LÂM      (Hướng về 1000 năm Thăng Long - Hà Nội)Tiến sĩ Khiếu Năng Tĩnh sinh ngày 19 tháng 07 năm Quý Tỵ, niên hiệu Minh Mạng 14 (1833) tại xã Chân Mỹ, tổng Từ Vinh, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng (nay là thôn Trực Mỹ, xã Yên Cường, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định).

GS Đinh Xuân Lâm - Ảnh: thethaovanhoa.vn

Ngay từ hồi còn nhỏ đi học, ông đã tỏ ra thông minh sáng dạ, chăm chỉ học tập; khi lớn lên, học hành tấn tới và sớm bộc lộ năng khiếu, thích học cổ văn, đọc suốt các sách cổ kim, nhân sĩ Bắc Hà đều biết tiếng. Hoàng giáp Phạm Văn Nghị, cùng quê huyện Ý Yên, từng giữ chức Đốc học tỉnh Nam Định, khi xem văn tập của Khiếu Năng Tĩnh, đã nói với Phó bảng Đỗ Huy Uyên, cùng quê, phủ Nghĩa Hưng, cùng tỉnh Nam Định rằng: “Văn này (tức văn của Khiếu Năng Tĩnh) phải quan trường học rộng như biển và nhẫn nại mới chấm đỗ”.

Đó là một đánh giá tinh tế, cho thấy văn chương Khiếu Năng Tĩnh sâu sắc và uyên bác, người đọc phải công phu mới đánh giá đúng chân giá trị. Cũng chính vì vậy mà Khiếu Năng Tĩnh sau này đã lận đận nơi trường ốc, bắt đầu lều chõng đi thi từ năm mới 20 tuổi mà tới 42 tuổi chỉ đỗ Tú tài, hết ông Kép, ông Mền, đến ông Đụp…, phải tới khoa thi năm Mậu Dần (1878) mới đỗ Cử nhân, để rồi hai năm sau, đến khoa thi năm Canh Thìn (1880), niên hiệu Tự Đức thứ 3, ông mới đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân.

Thi đỗ thì ra làm quan, đó là con đường duy nhất mà bất cứ sĩ tử nào cũng phải đi theo, Khiếu Năng Tĩnh cũng không ra ngoài con đường đó. Sau khi đỗ Tiến sĩ, ông được gọi vào triều giữ chức Hàn lâm viện Biên tu, hai năm sau lại được cử làm Đốc học tỉnh Nam Định quê nhà (1882), rồi thăng Hàn lâm viện thị giảng học sĩ (1885), tiếp đó sau hai lần nhậm chức Đốc học Hà Nội là nơi trung tâm văn hóa - giáo dục cả nước, để rồi đến năm 1892 lại được về Kinh đô Huế đảm nhiệm chức vụ Tư nghiệp, sau thăng Tế tửu Quốc tử giám, một chức vụ cao quý đứng đầu ngành giáo dục cả nước mà chỉ những người văn tài lỗi lạc, học vấn uyên bác, kết hợp với đạo cao đức trọng mới được đề cử phụ trách.

Đối chiếu với lịch sử nước ta, đây là một thời kỳ đầy biến động. Thực dân Pháp sau nhiều năm điều tra dòm ngó, đã phát động chiến tranh xâm lược Việt . Rồi lợi dụng thái độ cầu hòa không điều kiện của vua quan triều Nguyễn và sức mạnh của vũ khí, chúng đã lần lượt mở rộng đánh chiếm cả nước, đầu tiên là Nam Kỳ sáu tỉnh (1867), rồi trên đà thắng thế lại hai lần kéo quân ra đánh chiếm Bắc Kỳ, lần thứ nhất vào năm 1873, lần thứ hai vào năm 1882 - giữa hai lần cách nhau 10 năm. Triều đình Huế liên tiếp ký các hàng ước, hết hàng ước Giáp Tuất (15/03/1874) đến hàng ước Quý Mùi (25/08/1883), rồi hàng ước Giáp Thân (06/06/1884), đánh dấu sự đầu hàng của toàn bộ giai cấp phong kiến Việt Nam. Giai cấp phong kiến về danh nghĩa và trên thực tế đã mất vai trò trong cuộc bảo vệ độc lập dân tộc, nhà nước phong kiến Việt Nam đang còn tồn tại về hình thức, nhưng đã hoàn toàn sụp đổ, nước Việt Nam đã trọn vẹn trở thành thuộc địa của thực dân Pháp.

Nhưng nhân dân Việt vẫn anh dũng và kiên trì đấu tranh. Phong trào Cần Vương bùng nổ sau khi chiếu Cần Vương được ban bố từ sơn phòng Tân Sở (Quảng Trị) (ngày 13/07/1885), kêu gọi văn thân sĩ phu và nhân dân cả nước đứng lên đánh giặc cứu nước, tạo nên một cao trào yêu nước chống Pháp lan tràn trong cả nước, cho tới khi nhà yêu nước lỗi lạc đất Hồng Lam là Phan Đình Phùng ngã xuống trong chiến đấu (1895) mới căn bản chấm dứt (1896). Trong khi đó thì phong trào đấu tranh tự phát của nông dân, với đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa Yên Thế (Bắc Giang) vẫn tiếp tục hoạt động trong muôn vàn khó khăn trước sự đàn áp, khủng bố ác liệt của thực dân Pháp. Và từ năm 1897, lịch sử Việt Nam đã chuyển sang một thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, cuộc khai thác lần thứ nhất (1897 - 1914) và khai thác thuộc địa lần thứ hai (1919 - 1930), xen giữa là 4 năm chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 - 1918), gây nên nhiều biến đổi về cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã hội. Chính suốt trong những năm tháng sóng gió này, nhà văn thân yêu nước, nhà giáo tiêu biểu đứng đầu học giới Việt lúc đó là Khiếu Năng Tĩnh đã sống và hoạt động. Với tư cách là Tế tửu đứng đầu Quốc tử giám tại kinh đô Huế, tất nhiên ông vẫn phải tiến hành việc giáo dục đào tạo các văn thân sĩ phu theo quy định cũ, nhưng tình hình bên ngoài không thể không tác động đến đội ngũ các thầy giáo và đến cả các học viên nhà trường. Ảnh hưởng của Tân thư, Tân báo không thể không xâm nhập vào nhà trường, tác động đến tư tưởng và tình cảm của cả thầy và trò, đặc biệt là đối với vị hiệu trưởng nhà trường là Tiến sĩ Khiếu Năng Tĩnh.

Chính trong thời gian này đã diễn ra một sự kiện đặc biệt quan trọng có ý nghĩa lịch sử to lớn cho thấy tư tưởng và tình cảm của Tế tửu Khiếu Năng Tĩnh đã đứng về phe cấp tiến, và có hành động tích cực ủng hộ những người yêu nước tiến bộ. Đó là sự kiện chí sĩ Phan Bội Châu (trong khoa thi Hương năm Đinh Dậu đời vua Thành Thái thứ 8 (năm 1897) tại trường thi Nghệ An bị can tội mang sách vào trường thi nên bị án suốt đời không được dự thi - sự việc này trong thực tế diễn ra mà Phan Bội Châu không hề hay biết) đã vào Kinh đô Huế ngồi dạy học, với ý định mở rộng giao du, tìm kiếm đồng chí. Tại Kinh đô Huế lúc đó đã diễn ra một cuộc gặp mặt giữa một số người có tài năng và tâm huyết đang tìm cách liên kết với nhau để bàn việc cứu nước. Chí sĩ Phan Bội Châu đã kể về sự việc này như sau: “Mỗi khi hết giờ dạy học, lại dùng văn tự để kết giao với các bậc văn thân; Ông Khiếu Năng Tĩnh hiện làm Tế tửu Quốc tử giám rất quý trọng tôi, lúc này tôi lại kết bạn đồng tâm với ông Đặng Nguyên Cẩn(1). Ông Mai Sơn Nguyễn Thượng Hiền(2) rất tán thưởng bài phú Bái thạch vi huynh của tôi”. Sau đó Phan Bội Châu còn cho biết thêm là trong dịp này ông được Nguyễn Thượng Hiền đưa cho xem bài Thiên hạ đại thế luận của ông Nguyễn Lộ Trạch(3), nhờ đó mà “tư tưởng thế giới của tôi mới bắt đầu nảy mầm. Ông lại cho tôi mượn các cuốn sách như Trung Đông chiến kỷ, Phổ - Pháp chiến kỷ Doanh hoàn chí lược(4). Tôi xem những sách ấy mới hiểu sơ qua về tình hình cạnh tranh trên thế giới và thảm trạng mất nước, nòi giống diệt vong, lòng tôi lại càng được kích thích thêm… Từ đó tư tưởng tháo cũi sổ lồng của tôi bắt đầu rung động”(5). Lại nói về bài phú “Bái thạch vi huynh” (Lạy đá làm anh) đặc sắc của Phan Bội Châu hồi đó. Hai câu:

“Tam sinh điều hải chi tư, vị vong tướng bá,
Nhất phiếu bổ thiên chi lực, hữu thị phùng xuân”.

Tạm dịch:

“Ba sinh lấp biển có lòng, chưa quên nhờ bác
Một miếng vá trời ra sức, lại được gặp anh”.

Rõ ràng đó là những lời tâm huyết từ đáy lòng của một con người ưu thời mẫn thế, giàu lòng yêu nước, đang dò tìm bạn đồng tâm đồng chí để cùng lo việc lớn. Cũng cần nói thêm rằng trong một xã hội phong kiến ưa chuộng khoa danh như nước ta trước kia, một người không đỗ đạt bằng cấp gì lại còn quàng thêm trên vai án suốt đời không được đi thi như Phan Bội Châu hồi đó thì có thể nói là con đường tiến thủ đã hoàn toàn chấm dứt. Thế nhưng với tài lỗi lạc, chủ yếu bằng cái “Tâm” trong sáng, cái “Tâm” trong sáng ở đây là một lòng yêu nước sâu xa, ông đã có sức cảm hóa, chinh phục mạnh đối với những người tâm huyết, kể cả một số người trong quan trường tại Kinh đô Huế thời đó. Chính Tế tửu Quốc tử giám khi được đọc bài phú Bái thạch vi huynh cũng đã nhận ra được tài năng và chí khí của Phan Bội Châu. Không dừng lại ở đó, ông còn can đảm đứng ra cùng các quan đồng tâm đồng chí trong triều tiến hành một cuộc vận động để bản án bị oan của Phan Bội Châu được xóa bỏ. Trong lịch sử thi cử phong kiến, thiết tưởng đó cũng là một việc hy hữu, việc này một mặt nói lên truyền thống yêu nước sâu xa của dân tộc, nhưng đồng thời cũng khẳng định một thực tế lịch sử lúc đó là ảnh hưởng của các sách báo mới trong xã hội Việt Nam đã khá rộng và mạnh.

Đến năm Canh Tý (1900), khi thi Hương tại trường Nghệ An, Phan Bội Châu đã bị sốt trong lúc thi và tưởng phải bỏ dở kỳ thi. Nhưng chính Tế tửu Quốc tử giám là Khiếu Năng Tĩnh năm đó làm Chánh chủ khảo trường thi Nghệ An đã tỏ rõ sự quan tâm ưu ái, cho người săn sóc thuốc men cho Phan Bội Châu để kịp thời lấy lại sức, làm xong quyển thi trong thời gian quy định, và năm đó ông đã đỗ đầu, đoạt danh hiệu Giải nguyên. Nhờ vậy, Phan Bội Châu có thêm uy tín, danh tiếng rộng lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tuyên truyền vận động cứu nước.

Căn cứ vào các việc làm của Tế tửu Khiếu Năng Tĩnh, có thể khẳng định ông là một nhà giáo dục lớn, có sự quan tâm đặc biệt đến công tác lựa chọn người tài, biết đánh giá con người theo đúng tài năng, biết tạo cơ hội cho người có tài năng, học vấn thành đạt để có điều kiện phục vụ. Bằng việc làm của mình, Khiếu Năng Tĩnh đã tỏ ra là người tinh tế, biết đánh giá con người đúng với chân giá trị, ngay khi họ còn trong cơn hoạn nạn, và trong trường hợp Phan Bội Châu thì ông đã tạo ra thời cơ đặc biệt thuận lợi cho bước phát triển mới của phong trào yêu nước cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ trước. Việc ông được các sĩ phu đương thời ca ngợi là người có tấm lòng bao dung nhân ái, biết trọng dụng và kén chọn người tài là vô cùng xác đáng, thật phù hợp với nhiệm vụ đứng đầu cơ quan giáo dục đào tạo cao nhất của nhà nước phong kiến bấy giờ.

Sự nghiệp giáo dục đào tạo là một cống hiến lớn gần như bao trùm suốt cuộc đời Tiến sĩ Khiếu Năng Tĩnh. Khi về trí sĩ nơi quê nhà năm Giáp Thìn, niên hiệu Thành Thái thứ 6 (1904), ông vẫn dốc lòng mở trường dạy học, đặc biệt cho các cháu nhỏ con nhà nghèo. Ông tự bỏ tiền dựng nhà mở lớp tại tư dinh, tới hơn 200 học sinh, nhiều người trong số đó đã thành đạt. Phương châm ông thường dạy cho học trò rèn luyện noi theo là “Kẻ sĩ đi học mong noi theo khuôn phép của Thánh hiền, làm gương mẫu cho người đời bắt chước, chớ không cần thi đỗ vẻ vang và hãnh diện. Khi làm quan lúc nào cũng phải nghĩ đến dân đến nước, chớ không cần bổng lộc để vinh thân phì gia”.

Trong những năm cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, ông vừa giữ chức Tế tửu Quốc tử giám, vừa tham gia biên soạn nhiều bộ sách quý, năm 1900 bộ sách Minh Mạng chính yếu, năm 1901 dịch Luận ngữ diễn âm, năm 1902 cuốn Nhân thế tu tri. Qua các tác phẩm Hán Nôm, ông đề cao khí tiết người trượng phu, trong Cố hương thi tập ông đã nói lên tâm sự của mình, đồng thời cũng là chung cho giới sĩ phu yêu nước có khí phách, trung thực thời bấy giờ:

“Đông lai hà vật bất điêu linh,
Điền xá cô trùng độc tú thanh,
Vũ đả phong chàng tâm tự tại,
Trượng phu bất quý thế gian bình”.

Tạm dịch:

“Mùa đông mọi vật đều xơ xác,
Xóm ruộng thông già cứ tốt xanh,
Mưa dội gió lay lòng vẫn thế,
Trượng phu không thẹn với câu bình”.

Ông còn dày công nghiên cứu địa lý, lịch sử nước nhà và biên soạn nhiều tác phẩm, cũng như công trình địa chí như Hà Nội tỉnh chí, Tân biên Nam Định tỉnh địa dư chí lược, Đại An bản mạt khảo, Đại An huyện chí… rất quý và rất cần cho công tác nghiên cứu địa chí, lịch sử, giáo dục truyền thống, tiếc rằng trong số đó có tác phẩm đến nay chưa sưu tầm được, như Hà Nội tỉnh chí.

Khiếu Năng Tĩnh mất tại quê nhà ngày 06 tháng 04 năm Ất Mão (1915), thọ 83 tuổi, trong sự tiếc thương và lòng cảm mộ của nhân dân địa phương, của văn thân sĩ phu cả nước. Ông vô cùng xứng đáng được vinh danh là một nhà văn hóa - giáo dục lớn, một vị “Sư biểu” của nước ta.

Đ.X.L
(252/02-2010)



--------------
(1) Đặng Nguyên Cẩn: người làng Lương Điền, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Đỗ Phó bảng rồi được bổ dụng vào ngành giáo chức. Tham gia phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX nên bị đày ra Côn Đảo. Sau khi ra tù, ông mất ở quê nhà.
(2) Nguyễn Thượng Hiền: hiệu là Mai Sơn, người làng Liên Bạt, huyện Ứng Hòa, Hà Nội. Sau khi đỗ Hoàng giáp, có thời gian ra làm quan. Đến năm 1908, xuất dương hoạt động yêu nước cách mạng. Mất tại Hàng Châu (Trung Quốc).
(3) Nguyễn Lộ Trạch: hiệu là Kỳ Am, người làng Kế Môn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên. Tác giả các bản điều trần Thời vụ sách, Quỳ ưu lục đề nghị với triều đình chấn chỉnh võ bị, duy tân đất nước, nhưng đều không được chấp nhận.
(4) Tên các cuốn Tân thư của Trung Quốc được đưa sang Việt hồi đầu thế kỷ XX, được các nhà nho cấp tiến hồi đó hào hứng tìm đọc.
(5) Phan Bội Châu niên biểu (bản dịch) - Nxb Thuận Hóa, Huế, 2004.




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.

  • MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.

  • ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc                                  Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.

  • TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.

  • MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.

  • TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.

  • HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNG                 Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.

  • ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.

  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!

  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.