Từ chỉ loại "con" trong tiếng Việt và văn học

10:51 18/11/2009
HOÀNG TẤT THẮNGMột trong những đặc điểm đặc thù của tiếng Việt là: các danh từ chỉ sự vật, hiện tượng, trạng thái, tính chất... không phải luôn chỉ đứng một mình mà thường kết hợp với một từ đứng trước với chức năng phân loại, chỉ đơn vị, biểu thái... trong lời nói. Chẳng hạn, sự vật thuyền trong tiếng Việt không phải chỉ có từ "thuyền" mà còn có "cái thuyền", "chiếc thuyền", "con thuyền", "lá thuyền", "mảnh thuyền"... các từ "cái - chiếc - con - lá - mảnh..." thường gọi là từ chỉ loại (hay là loại từ).

Đặc điểm đặc thù ấy dẫn đến các hệ quả là, trong lời nói; một danh từ chung có thể kết hợp với nhiều từ chỉ loại khác nhau (như danh từ "thuyền" nêu trên); hoặc ngược lại, một từ chỉ loại có thể kết hợp với nhiều danh từ chỉ sự vật, hiện tượng khác nhau. Chẳng hạn, "mảnh trăng, mảnh thuyền, mảnh đời, mảnh tình,...".

Từ "con" trong tiếng Việt, với tư cách là từ chỉ loại, là một từ như vậy. Những trường hợp như "hai đứa con, sông con, mảnh vườn con, con gái, con trai"... không phải là từ chỉ loại.

Với tư cách là từ chỉ loại, từ "con", có các nghĩa sau:

1. Dùng để chỉ từng đơn vị cá thể động vật (con rùa, con chim...).

2. Dùng để chỉ từng đơn vị một số vật thường có đặc điểm hoạt động hoặc hình thể giống động vật (con mắt, con tim, con đường, con quay,...) (Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Nxb KHXH, H.1994). Đó là những nét nghĩa cơ bản, tự thân, nghĩa kết cấu của từ chỉ loại "con" trong hệ thống từ vựng tiếng Việt. Song, trong hoạt động giao tiếp, đặc biệt trong sáng tác thơ ca, từ chỉ loại "con" mới có thể hiện thực hóa những tiềm năng ngữ nghĩa, những kết hợp bất ngờ, những sắc thái biểu cảm và phong cách đa dạng và tinh tế của mình. Chỉ ở trong ngôn ngữ nghệ thuật, từ chỉ loại "con" cũng như nhiều từ cùng nhóm khác, mới bộc lộ hết tất cả những khả năng tiềm ẩn ngữ nghĩa của mình. Chỉ ở trong hệ thống mở (trạng thái động), ta mới có thể phát hiện được hết những nét ngữ nghĩa tinh tế linh hoạt của từ "con" mà khi còn ở trong hệ thống tĩnh, ta không hề cảm nhận được.

Ở trong hệ thống tĩnh, nghĩa của loại từ "con" chỉ biểu thị một hình thức tồn tại nào đó của đối tượng, là ý nghĩa "phi thực thể". Nhưng khi hoạt động trong lời nói, trong văn bản nghệ thuật thì nghĩa "phi vật thể" tạm thời chìm ẩn. Ở đó diễn ra quá trình chuyển hóa ngữ nghĩa "phi vật thể" thành nghĩa "vật thể", làm cho vật thể được gọi tên trở thành một chỉnh thể trọn vẹn, cụ thể với những đặc trưng đầy đủ phẩm chất, chức năng, chất liệu, hình dáng, màu sắc,... Chẳng hạn:

Con (loại từ): chỉ hình thức tồn tại của đơn vị riêng lẻ ở dạng động...

Con chim: loại động vật đơn lẻ, có cánh, biết bay...

Con sông : sự vật đơn lẻ, có nước, đang trôi...

Con trăng : sự vật đơn lẻ, hành tinh trên bầu trời, tỏa sáng ban đêm, đang vận động... cùng với tâm trạng, sự đánh giá đối tượng của người nói.

Rõ ràng, nghĩa của các tổ hợp có loại từ "con" phải được phát hiện với tất cả phẩm chất năng động trong tính lịch sử cụ thể của nó cùng với sự biến hóa giữa nội dung và hình thức trong từng cấu trúc, từng văn cảnh nhất định.

Trong ngôn ngữ nghệ thuật, từ chỉ loại "con" xuất hiện trong những văn cảnh khác nhau đều có cái sắc thái ngữ nghĩa không giống nhau. Nó thực sự đã "khoác một tấm áo mới" về sắc thái ý nghĩa và sắc thái biểu cảm, mặc dù nét nghĩa cơ bản của nó vẫn ẩn hiện làm cơ sở cho sự phát sinh các sắc thái nghĩa văn cảnh.

Chẳng hạn trong bài "Tình thu", Hàn Mặc Tử viết :

            "Đêm trước ta ngồi dưới bãi trông
            Con trăng mắc cỡ sau cành thông"

Trong văn cảnh này (không gian, thời gian, tâm trạng) mà dùng kết hợp con trăng thì quả là một sự liên tưởng độc đáo, vừa bất ngờ. Theo lôgic thông thường thì phải dùng vầng trăng, mặt trăng. Nhưng vầng trăng, mặt trăng thuần túy chỉ là một vật vô tri, vô giác (vật vô sinh). Dùng cấu trúc con trăng, Hàn Mặc Tử đã "biến hóa" một vật vô sinh thành hữu sinh, và hơn thế nữa là một "người bạn tình", một người tình thực sự với những cuộc "gặp gỡ, hẹn hò" không hẹn trước. Dùng cấu trúc con trăng loại từ con đã hóa thân và nằm trong mối quan hệ nhiều chiều: quan hệ với không gian (bãi trống mênh mông), quan hệ với thời gian (một buổi đêm), quan hệ với con người (một người tình tự nguyện và say đắm).

Từ chỉ loại con không chỉ có chức năng hữu sinh hóa, vật hóa và nhân hóa các sự vật, hiện tượng vô tri, vô giác mà còn có tác dụng biểu thị đơn vị đo thời gian. Mỗi con trăng là một vòng quay theo chu kỳ của mặt trăng trong một tháng.

            Em thương anh không nói không cười
            Ôm duyên chờ đợi chín mười
con trăng
                                   
(ca dao)

            Anh gặp em đây con bóng đương trưa
            Rưng rưng nước mắt tay đưa miếng trầu
                                   
(ca dao)

Cách sử dụng loại từ con với chức năng động hóa kết hợp với vật hóa những sự vật, hiện tượng tĩnh tại nhiều lúc hết sức sinh động:

"Thanh ngồi trên chiếc chõng tre, mãi nhìn con nắng đang bò dần lên bậu cửa". (Tô Hoài).

Ánh trăng, ngọn gió vẫn là những hình ảnh đầy tâm trạng thường xuyên đi về trong thơ ca Việt Nam. Xuân Diệu đã cảm nhận :

            Con gió xinh thì thào trong lá biếc
            Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi.

Tác giả đã không dùng cấu trúc ngọn gió hay làn gió mà dùng con gió. Dùng loại từ "con", tác giả đã nhân hóa vật vô sinh thành vật hữu sinh, đã biến ngọn gió thành một con gió có cảm xúc, biết đồng cảm thương yêu, biết giận hờn và chia sẻ với những cuộc tình chốc lát, mỏng manh, vô vọng...

Những phân tích, miêu tả ở trên cho thấy sự phong phú, linh hoạt các sắc thái nghĩa của từ chỉ loại con trong ngôn ngữ nghệ thuật: hữu sinh hóa cái vô sinh, động hóa cái tĩnh, chủ quan hóa cái khách quan, thời gian hóa không gian... Vì thế, loại từ con thực sự đã trở thành một phương tiện không thể thiếu được cho các biện pháp tu từ trong ngôn ngữ thơ ca, điều mà xưa nay không phải ai cũng luôn nhận thấy.

H.T.T
(127/09-99)





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LẠI NGUYÊN ÂNTrước khi vào đề, tôi phải nói ngay rằng trong thực chất, người đã thúc đẩy tôi viết bài này là nhà Việt học người Nga Anatoly Sokolof. Tôi nhớ là anh đã ít nhất một lần nêu với tôi: hiện tượng mà người ta đang gọi chung là “thơ Hồ Xuân Hương” nên được tiếp cận từ góc độ “mặt nạ tác giả”.

  • Ngôn ngữ văn học luôn mang dấu ấn thời đại lịch sử của nó. Đồng thời, thông qua ngôn ngữ tác phẩm người đọc có thể đánh giá được khả năng sáng tạo và phong cách sáng tác của người nghệ sĩ. Văn học Việt Nam từ sau 1975, đặc biệt là sau Đại hội VI của Đảng năm 1986 đã có những đổi mới mang tính đột phá trên mọi phương diện, trong đó có ngôn ngữ. Viết về đề tài lịch sử trong bối cảnh mới, các nhà văn sau 1975 không chịu núp mình dưới lớp vỏ ngôn ngữ cũ kĩ, khuôn sáo như trước.

  • Nếu có thể nói gì về tình trạng ngày càng thưa vắng các tiểu thuyết đọc được hôm nay, hay nói một cách chính xác hơn là sự vắng mặt của tiểu thuyết hay trong vài thập kỷ qua, theo tôi trước hết đó là vấn đề tâm thể thời đại

  • ĐINH XUÂN LÂM      (Hướng về 1000 năm Thăng Long - Hà Nội)Tiến sĩ Khiếu Năng Tĩnh sinh ngày 19 tháng 07 năm Quý Tỵ, niên hiệu Minh Mạng 14 (1833) tại xã Chân Mỹ, tổng Từ Vinh, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng (nay là thôn Trực Mỹ, xã Yên Cường, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định).

  • HOÀNG TẤT THẮNG1. Khái quát về địa danh học.

  • NGUYỄN HOÀNG ĐỨCKhông có một xã hội nào sống và phát triển được nếu không cậy trông vào khả năng phê bình của chính mình. Nói một cách thật dễ hiểu, như người Pháp khẳng nhận: "Người ta dựa trên những gì chống lại mình".

  • PHONG LÊ      (Tiếp theo Sông Hương số 250 tháng 12-2009 và hết) Sau chuyển đổi từ sự chia tách, phân cách đến hội nhập, cộng sinh, là một chuyển đổi khác, cũng không kém tầm vóc: đó là từ cộng đồng sang cá nhân; với một quan niệm mới: cá nhân mạnh thì cộng đồng mới mạnh; cá nhân được khẳng định thì sự khẳng định vai trò cộng đồng mới được bảo đảm.

  • ĐÀO THÁI TÔNNhư chúng tôi đã có lời thưa từ bài báo trước, trong Thơ quốc âm Nguyễn Du (Nxb Giáo dục, H, 1996), thay vì việc xem "bản Kinh" của Truyện Kiều là bản sách in bởi vua Tự Đức, Nguyễn Thạch Giang đã viết đó chỉ là những bản chép tay bởi các quan văn trong triều. Điều này là rất đúng.

  • PHẠM QUANG TRUNGHiện giờ báo chí chuyên về văn chương ở ta đã phong phú và đa dạng. Riêng Hội Nhà văn đã có các báo Văn nghệ, Văn nghệ dân tộc và miền núi, Văn nghệ Tre, và các tạp chí Tác phẩm mới, Văn học nước ngoài.

  • LÊ ĐẠT     Cầm tên em đi tìm

  • VŨ NGỌC KHÁNH        (Trích tham luận: “Thử bàn về minh triết”)

  • LTS: Thế giới đang xuất hiện trào lưu phục hưng minh triết sau một thời gian dài chối bỏ. Ở Việt cũng đã hình thành Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Minh Triết thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt . Tiếp theo cuộc Hội thảo lần thứ I tại Hà Nội “Minh triết - giá trị nhân loại đang phục hưng”, cuối tháng 11.2009 tại Huế, Trung tâm đã tổ chức Hội thảo với chủ đề “Minh triết Việt trong tiến trình lịch sử văn hóa Việt”.

  • Giấy dó là sản phẩm thủ công của cha ông ta để lại. Xưa kia làng Bưởi có nghề làm giấy dó nổi tiếng. Giấy dó được dùng vào việc ghi chép văn bản chữ Hán nôm, viết bút lông mực tàu...

  • Sự phát triển của thực tiễn và lý luận nghệ thuật- dù ở đâu, thời kỳ lịch sử nào cũng vậy- thường phụ thuộc vào 3 nhân tố quan trọng và phổ quát nhất: Sự phát triển của khoa học và công nghệ; Những chính sách chính trị (trong đó bao gồm cả những chính sách về văn hóa và nghệ thuật); Những nhà tư tưởng và nghệ sỹ lớn.  

  • TRẦN HUYỀN SÂMClaude Lévi-Strauss là một trường hợp hiếm thấy và khó lặp lại trong lịch sử nhân loại. Lévi chính là một cú sốc đối với nền văn minh phương Tây. Lý thuyết của nhà cấu trúc học vĩ đại này là sự hạ bệ hùng hồn nhất đối với tư tưởng thống ngự và độc tôn của xã hội toàn trị châu Âu; và là sự biện minh sâu sắc cho một mô thức đa văn hóa của nhân loại.

  • LÊ THÀNH LÂNTrong 4 năm liền, Tào Mạt lần lượt cho ra đời ba vở chèo tạo nên một bộ ba chèo lịch sử với tiêu đề chung là Bài ca giữ nước, đều do Đoàn Nghệ thuật Tổng cục Hậu cần dàn dựng và đều được nhận những giải thưởng cao.

  • PHONG LÊĐó là: 1. Từ sự phân cách, chia đôi của hai thế giới - địch và ta, chuyển sang hội nhập, cộng sinh, có nghĩa là nhân rộng hơn các tiềm năng, cũng đồng thời phải biết cách ngăn ngừa, hoặc chung sống với các hiểm họa. 2. Từ cộng đồng chuyển sang cá nhân, cá nhân trở thành động lực quan trọng cho sự phát triển, nhưng cá nhân cũng sẵn sàng nổi loạn cho các ước vọng thoát ra khỏi các chuẩn mực của cộng đồng. Và 3. Từ phong bế (ở các cấp độ khác nhau) đến sự mở rộng giao lưu, hội nhập với khu vực và quốc tế, với sự lưu tâm hoặc cảnh báo: trong đi tắt, đón đầu mà không được đứt gẫy với lịch sử.

  • ĐỖ HẢI NINH(Nhân đọc tiểu thuyết Một mình một ngựa của Ma Văn Kháng. Nxb Phụ Nữ, H, 2009; tác phẩm nhận giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội 2009)

  • PHẠM QUANG TRUNGHiện nay, vấn đề đổi mới thi pháp đang được nhiều người cầm bút quan tâm. Xin ghi lại cuộc trao đổi mới đây giữa tôi (PQT) với một nhà văn (NV) về vấn đề bức thiết này.

  • (Theo bách khoa thần học New Catholie)THẨM GIÁ PHÊ BÌNH Việc thiết định giá trị phán đoán trong phê bình đã được kiểm thảo một cách nghiêm khắc trong thế kỷ XX. Chẳng hạn, người ta cho rằng phê bình đã vượt lên cả tầm vóc “viên đá thử vàng” trong việc thẩm giá hội họa để dẫn dắt thị hiếu thưởng thức hội họa của công chúng.