Từ ảo ảnh đến trò chơi cuối

09:51 21/01/2010
LÊ HUỲNH LÂM(Đọc tập truyện ngắn “Thõng tay vào chợ” của Bạch Lê Quang, NXB Thuận Hóa, 11/2009)

Nhà thơ Lê Huỳnh Lâm

Như một quy ước ngầm định, hợp tan là câu chuyện của mọi thời đại. Trong một trăm ngàn điều khổ, với nhà Phật có oán tằng hội khổ, nghĩa là đau khổ do gần với người mình oán ghét và ái biệt ly khổ là khổ vì rời xa người mình yêu thương. Điều đó đã được tác giả minh họa bằng những câu văn gãy gọn, dồn nén, đưa người đọc vào trạng thái hụt mà không hẫng. Truyện ngắn “Ảo ảnh” đã mở ra triết luận hiện thực ở xã hội Việt , và rồi câu nói của Nhụy như một vết cứa vào những ai tự cho mình là trí thức: “trí thức vốn hèn mà thầy lại là người hèn nhất…”. Dù sao nhân vật thầy trong “ảo ảnh” vẫn còn có lương tri khi cảm nhận “lời nàng là một thứ dao khác sắc hơn, nhọn hơn”. Để rồi hình ảnh ẩn dụ đầy tính lãng mạn của những mảnh giấy vụn hóa thành hàng trăm con bướm trắng, thành hàng ngàn mảnh của một cánh buồm. Mà lại cánh buồm mê muội đường về. Phải chăng đây là cảm thức của một giáo viên dạy văn về thực trạng ngành nghề của mình?

Với tiết tấu nghịch đảo, ngắt quãng, mỗi dấu chấm câu như một dấu lặng, tác giả dành cho độc giả cái khoảng hoang vắng lạ thường trong không khí của chiếu bạc, được miêu tả khá kỹ lưỡng trong truyện “Cổ tích không bụt”. Bạch Lê Quang đã nêu bật được giá trị nhân văn, phủ nhận cái ngộ nhận về hình thức và luân lý đã ăn sâu trong tâm thức người Việt, khi mà Hồng voi là gái đứng đường lại lấy trộm cái chân gỗ của gã cụt đã cầm cố cho mẹ của Hồng trong canh bạc cuối cùng. Để rồi gã cụt phải nằm dưới gầm cầu với cơn đói mờ mắt… Hình ảnh Hồng voi đến với gã cụt như một cổ tích giữa đời thường. Câu chuyện khiến cho người đọc giựt mình trước sự vô cảm của những con người quyền thế đang gánh trách nhiệm lớn của xã hội. Ôi, phải chăng hình tượng chiếu bạc đã khiến người đọc liên tưởng đến những bãi chiến trường mà gã cụt như đại diện cho tầng lớp nạn nhân đã bị xã hội ruồng bỏ, rồi sau cuộc chiến đó là những hệ lụy, bao giá trị nhân văn của tiền nhân đã chìm vào khói lửa.

Cũng trong năm này, niềm tin vào các giai tầng trong xã hội, đã được một tờ báo mạng có tiếng đưa tin, theo thống kê thăm dò ở một nước láng giềng, thì độ tin cậy của người dân đối với gái điếm còn cao hơn cả sinh viên, chính khách... các cô gái điếm xếp vị trí thứ ba chỉ sau nông dân và nhân viên tôn giáo.

Và cơn đói của cái bao tử không bằng cơn đói của trái tim, của lòng người giữa một xã hội đầy rẫy những phi lý đang hiện hữu. Gã cụt đã quên mất mấy ổ bánh mì mà Hồng voi đưa đến. Gã nhào vào vị cứu tinh và như được hơi ấm của nàng; một cô gái đứng đường truyền năng lượng sang gã cụt.

Trong “Đom đóm núi” lại là một lối kể chuyện đầy cuốn hút của tác giả. Hình ảnh và cử chỉ trọng nghĩa tình của giới giang hồ và câu chuyện bi thương về tình yêu, khi cái chết Trương Chi được giải mã qua chiếc vòng thạch cẩm trắng buồn nắm chặt trên tay chàng.

Không phải ngẫu nhiên mà truyện đầu tiên là “Ảo ảnh” và cuối cùng là “Trò chơi cuối”. Đó là một sự sắp đặt trong cơn say khi mà “trong những chiều mưa sủi tăm, trắng trời, trắng xóa lòng người” rồi ông Năm cũng tan biến vào đất và “tôi chẳng nhìn rõ mọi vật xung quanh mình, kể cả thằng Côi.”

“Ảo ảnh” băng qua những “Gái nghê thường”, “Giấc mơ chim”,… rồi “Ngọc Phật”“Thõng tay vào chợ”, đã phần nào vẽ lên bức tranh trong những chiều mưa tả tơi, với những cuộc người bôn ba chìm nổi. Để cuối cùng là giấc mơ về một sự tan biến của hư vô ngập ngụa trong những ám tượng nặng nề, mà chỉ có những cơn say mới sẻ chia niềm ấm khô hanh của cõi ngày vắng lạnh.

Các nhân vật trong truyện ngắn của Bạch Lê Quang đa phần là những con người lao động kham khổ, không gặp thời... như Hồng, Mưng, Phước, Đoàn, Vũ, Lã,… Mỗi nhân vật là một mặt cắt của hiện thực xã hội đã được tác giả cô đọng lại trong từng trang viết.

Trong cái âm hưởng của ngôn ngữ nhẹ như tóc mây giữa chiều ngược gió, tác giả đã sử dụng song hành vốn ngôn từ gãy gọn thuần Việt kết hợp với cơn hí lộng quỷ thần qua những từ Hán Việt mà phần nào những thi nhân đời Đường, Kim Dung và Cổ Long đã lưu dấu. Vì vậy, mà trong truyện của anh mới cũ được hòa trộn, hình ảnh phố thị trộn vào hơi ẩm mốc của mùi rơm rạ sau những cơn mưa Huế rả rích trên những phận đời. Cũng có lời nhận định, truyện của Bạch Lê Quang như muốn gợi lại một điều gì đã lùi xa vào trong quá khứ, đó là những câu chuyện cổ tích đã vắng mặt ở xã hội được mệnh danh là hiện đại và nhân bản.

Cũng cần phải nói rằng, trong thời gian vừa qua, những tập truyện ngắn của các tác giả ở Huế ra mắt quá thưa thớt. Tuy là tập truyện đầu tay, nhưng văn của Bạch Lê Quang đã góp phần làm ấm lại cái không khí văn chương vốn nhạt nhẽo và vô hồn trong thời gian gần đây.

Chỉ có điều, sau khi khép lại tập “Thõng tay vào chợ”, lòng tôi chợt tiếc một cái gì đó thật mơ hồ, như cuộc tình rong ruổi của đôi uyên ương mà thiếu vắng một nụ hôn dại, hay tiếng thở gấp của gã cụt khi quên rút tay về để lấy ổ bánh mì của người gái điếm,… Và trong 12 truyện ngắn đó như thiếu thiếu một chút vị ngọt sâu trong tô cơm hến ở miệt Cồn xứ Huế. Phải chăng, nước sông Hương đã đổi thay!

Huế, 25/11/2009
L.H.L
(251/01-2010)





 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN ĐÔNG NHẬT19 lời chứng của những ONS(1) cuối cùng, lần đầu tiên được lên tiếng qua công trình nghiên cứu hoàn hảo của bà Liêm Khê LUGUERN(2) là những nhân chứng cuối cùng trong số khoảng 27.000 người từ Đông Dương bị lùa đến nước Pháp từ tháng 10/1939 đến tháng 6/1940 để phục vụ cho guồng máy chiến tranh của thực dân Pháp trong Thế chiến thứ II.

  • LÝ HẠNHAi trong đời chẳng đã một lần làm thơ. Dù làm thơ để giải trí hay sẻ chia thì những trang thơ ấy cũng là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tâm hồn.

  • LTS: Có một chuyện ít người biết là các nhà văn Tô Hoài, Xuân Diệu, Huy Cận không nhớ ngày sinh của mình. Xuân Diệu, con nhà Nho, thì biết mình sinh giờ Thìn, ngày Thìn, tháng Thìn, năm Thìn, nhưng không biết dương lịch ngày nào. Nhà văn Tô Hoài cũng vậy, nhưng nhớ Bà Cụ cho biết sinh ông đêm rằm Trung Thu. Sau này, sang Nga, bạn người Nga hỏi, mới tra ra ngày Tây là 27-9-1920. Do đó trên các tư liệu, thường thấy ghi ngày sinh: 07-9-1920, và nhà văn cũng không buồn đính chính. Nhân kỷ niệm 90 năm ngày sinh nhà văn Tô Hoài, Sông Hương nhận được bài viết của nhà văn Đặng Tiến cùng thông tin về ngày sinh Tô Hoài nói trên. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.

  • HOÀNG DŨNGKhông phải ngẫu nhiên khi ta nói vũ trụ, thế giới thì vũ, giới là không gian, mà trụ, thế là thời gian. Ngay trong những khái niệm tưởng chỉ là không gian, cũng đã có thời gian quấn quýt ở đấy.

  • LTS: Trong các ngày 7-9/9/2010 sắp đến, Ủy ban Văn hóa Hội đồng Giám mục Việt Nam và Tòa Tổng Giám mục Giáo phận Huế sẽ tổ chức Hội thảo về thân thế và sự nghiệp của Léopold Cadière (1869-1955), Nhà nghiên cứu về Huế và Việt Nam học, chủ bút của tập san Bulletin des Amis du Vieux Hué (B.A.V.H), một trong số các tờ báo hay nhất ở Đông Dương thuở trước. Hội thảo sẽ có một số nội dung liên quan đến văn hóa Huế như Văn hóa Huế, Mỹ thuật Huế, Cổ vật Huế dưới con mắt của L. Cadière... Nhân dịp này, Tạp chí Sông Hương đăng bài viết của nhà nghiên cứu Hồ Vĩnh, chuyển tải vài nét về hoạt động văn hóa của Léopold Cadière. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.S.H

  • NGUYỄN THỊ HÒA Không cần phải bàn cãi, Từ điển tiếng Huế của Tiến sĩ, Bác sĩ Bùi Minh Đức là một tác phẩm Từ điển. Một quyển từ điển về phương ngữ địa phương Huế mà dày dặn, công phu, với 2050 trang, thể hiện công sức nghiên cứu miệt mài của một vị bác sĩ - nghiệp dư với nghề ngôn ngữ, nhưng đầy nhiệt tình và khá chuyên nghiệp trong nghiên cứu.

  • Sinh ngày 6-2-41 tại Huế. Hy sinh ngày 11-10-68 tại vùng biên giới tỉnh Tây Ninh, nguyên quán làng Bát Tràng tỉnh Bắc Ninh. Học sinh cũ Trường Quốc Học, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Ban Việt văn. Tên thật và bút hiệu công khai, chính thức: Trần Quang Long. Các bút hiệu khác: Thảo Nguyên, Chánh Sử, Trần Hoàng Phong.

  • TRẦN HỮU LỤCỞ tuổi 20, hành trình sáng tác của Nhóm Việt gắn liền với những biến cố lịch sử ở miền Nam (1965-1975). Những cây bút trẻ của Nhóm Việt đã bày tỏ một thái độ dấn thân ngày càng sâu sắc, vừa trên bình diện ý thức công dân, vừa trên bình diện ý thức nghệ sĩ.

  • PHONG LÊ(Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Nguyễn Tuân 10-7-1910 – 28-7-1987)

  • NGUYÊN QUÂN Phía đằng sau những con chữ bình dị như một chốn quê nhà chưa bị ô nhiễm cơn đau phố bụi, một ngôi làng yên bình vẫn luôn hằng hiện trong mỗi hơi thở, mỗi bước gian truân của tác giả là sự chân thật đến nao lòng.

  • LÝ HOÀI THU Những câu thơ đầu tay của Hữu Thỉnh cất lên từ những cánh rừng Trường Sơn được anh gọi là “Tiếng hát trong rừng”. Anh viết về đồng đội, về cơn sốt rét rừng, về những trận bom và vết hằn xe xích, về mây, suối, dốc, thác Trường Sơn.

  • THÁI DOÃN HIỂU…Khi sự vong ân bội nghĩa của người đời đang diễn ra ở khắp đó đây thì Hoàng Trần Cương là người sống bằng ân sâu nghĩa cả. Với anh, ân nghĩa là một gánh nặng phải gánh. Anh nói về ân nghĩa như là một thứ trí nhớ của lương tri, một món nợ không bao giờ trả xong…

  • VŨ DUY THÔNG        (Thơ - Nghiêm Huyền Vũ, Nxb Trẻ 2000)Khác với bên ngoài, Nghiêm Huyền Vũ trong thơ là người trầm tư, cái trầm tư nhuốm vị triết học.Vây bọc quanh anh là không gian, thứ không gian cô liêu.

  • TRẦN QUỐC THỰCÍt người chịu đi tìm tiếng nói riêng khi đọc một tập thơ, một chặng thơ của một người. Qua từng chặng thơ, tiếng nói riêng ấy sẽ trở thành một cách thơ riêng biệt. Và đó là điều đáng mừng cho đội ngũ sáng tác.

  • NGUYỄN THANH TÚ          (Phác thảo chân dung nhà văn Nguyễn Bảo)

  • LGT: Cuốn tiển thuyết “Biết đâu địa ngục thiên đường” của nhà văn Nguyễn Khắc Phê vừa xuất bản được xem là tác phẩm thành công nhất của ông, cũng là cuốn tiểu thuyết viết kỹ lưỡng nhất, lâu nhất. Cuốn tiểu thuyết này hiện nay nằm trong danh sách những cuốn vào chung khảo cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam. Sông Hương xin giới thiệu những ý kiến nhận định rất chân thành của Giáo sư Trần Đình Sử, nhà văn Ma Văn Kháng và nhà nghiên cứu phê bình Từ Sơn.

  • FAN ANHCon người khác con vật không chỉ ở đặc điểm con người có một bản ngã, một cái tôi luôn biến động, mấu chốt nằm ở chỗ, con người có thể có nhiều bản ngã khác nhau, tồn tại một cách âm thầm trong những thế giới mà nhiều khi ngay bản thân mỗi cá nhân chúng ta cũng không thể am tường hết.

  • VĂN CẦM HẢI(Nhân đọc “Giọng nói mơ hồ” - Nguyễn Hữu Hồng Minh. Nxb trẻ 1999)

  • ĐỖ NGỌC YÊNHồ Quý Ly là một nhân vật lịch sử có thật. Hơn nữa ông đã từng làm đến chức quan Thái sư dưới thời nhà Trần khoảng từ năm 1370 - 1400, và lập nên nhà Hồ từ năm 1400 - 1407.

  • Phỏng vấn nhà nghiên cứu Nguyễn Việt - chuyên viên Hiệp hội CLB UNESCO Việt Nam – nhân cuộc triển lãm thư pháp thơ “Nhật ký trong tù” của Bác Hồ tại Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên Huế 8-2000