Nhà văn Nguyễn Quang Hà. Ảnh: Lê Vĩnh Thái
Giống như các đơn vị khác trên chiến khu luôn luôn cơ động. Tòa soạn báo khi ở Chà Tang, khi ở chân dốc Dòng và có khi xuống sâu như ở Ka Đe, thuộc Nam Đông bây giờ. Anh em đi công tác tản mác quanh năm. Ở nhà trực bên báo Cờ giải phóng có Ngô Kha, Quang Hà, Lê Huy, bên báo Cứu lấy quê hương có Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Trần Thân Mỹ. Người tôi gần gũi nhất là Ngô Kha, cùng làm trong một tờ báo và đặc biệt là có tâm trạng giống nhau, cho nên tâm tình rầm rì với nhau suốt ngày. Tôi là người đến sau cho nên được anh Ngô Kha dìu dắt rất tận tình. Anh Ngô Kha học đại học sử, tốt nghiệp, học qua một khóa báo chí rồi vào chiến trường. Trong ba lô anh chật ních tài liệu lịch sử Thừa Thiên - Huế nên anh làm báo rất dễ dàng, đụng tới đâu có đó, tuy vậy đi đến đâu ngày ngày anh vẫn ghi chép rất chu đáo, miệt mài. Bẩm sinh Ngô Kha có máu khôi hài, nên anh nhìn vào đâu cũng có thể cười vui được. Anh lấy ngay cả khuyết tật của mình để cười. Trong chuyến đi công tác với anh Ấm về Hải Thủy, Hưng Lộc, hai anh làm ca dao hò vè để phát động quần chúng. Anh Ấm làm câu mở đầu: “Gái sông Nong vừa hồng vừa trẻ” Ngô Kha nhìn anh Ấm cùng lé như mình, liền cười đọc: “Trai Quảng Trị vừa lé vừa ngơ”. Chả là Ngô Kha và anh Ấm cùng người Quảng Trị cả. Anh em trong hầm chữ A cười vang. Đến lượt anh Ấm không làm được câu tiếp, Ngô Kha đọc luôn: “Anh đi chầm chậm thì em chờ Tiếc rằng về sông Nông pháo dội nên thẫn thờ ngoái lui”. Anh em vỗ tay hoan hô nhiệt liệt. Giữa đạn bom có được tiếng cười vui như vậy không dễ. Ngô Kha kể ngày tết, anh với anh Trung về Quân khu ăn tết, thấy Trung, anh Bảy Tiến bảo: - Ta ra cho Trung một câu đối nhé. Nếu đối được ta cho một bao Điện Biên bao bạc. Anh Bảy Tiến đọc: “Chị Lựu đã bảy mặt con còn hồng sắc Lựu” Chả là Lựu là vợ Trung và Trung đối ngay: “Anh Trung hai cuộc kháng chiến vẫn còn Trung” Trung được cụ Bảy khen rối rít. Ngô Kha ngồi đâu là đem lại tiếng cười vui ở đó. Một hôm nhìn sang góc bên kia, Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân đang cắm cúi làm việc, Ngô Kha chỉ hai người bảo tôi: - Có hôm Tường chọc Xuân vui lắm. Hôm ấy Xuân đọc báo, quay lại nói với Tường: “Thì ra Phù Thăng tên thật là Phu, Tường ạ”. Tường tủm tỉm: “Đặt tên kiểu nói lái mà, Thằng Phu là Phù Thăng, như Xuân ấy, ông cũng nên lấy bút danh là Thùng Xăng thì hay. Hà thử lái lại xem, đúng Thùng Xăng là Thằng Xuân không?”. Kể xong, Ngô Kha cười. Tôi cười theo. Ở với Ngô Kha không nín tiếng được, luôn bị niềm vui lạc quan của Ngô Kha kéo theo. Tôi nhớ hôm ở Ư Ràng, ngày ấy đói lắm. Kiếm được khúc sắn cho vào bụng là mừng lắm. Thấy Kăn Ơi thổi lửa nấu sắn, Ngô Kha chỉ đống vỏ sắn nói: - Đồng bào cho mình chỗ vỏ sắn ni. Kăn Ơi hất rổ vỏ sắn xuống đất. Ngô Kha nói: - Hay đồng bào cho mình cái tút sắn này. Kăn Ơi không cho đáp gọn: - Anh là con người. Ngô Kha nói: - Mình là con người nên mình đói nè. Kăn Ơi cười. - Vỏ và tút sắn mình để cho heo đó. Heo nhà mình không biết nói, anh biết nói thì đi xin sắn đồng bào mà ăn. Ngô Kha cười lăn, bảo tôi: - Hóa ra Kăn Ơi để vỏ và tút sắn cho heo vì heo không biết đi xin. Vào bản đêm ấy chúng tôi được đồng bào nuôi. Ngô Kha lúc nào cũng niềm nở vui vẻ, đồng bào thương lắm, đặt cho anh cái tên thật hay: Quỳnh A Tao, tức là cây mía ngọt ngào. Ngô Kha rất tinh tế, anh lấy ngay kiểu tư duy của người dân tộc làm tiếng cười: Vào một chiều mùa đông, đường xa, đi công tác không kịp về cơ quan, tối ấy ngủ trong nhà đồng bào ở Ka Đe, thấy Hạnh xinh đẹp, Hạnh là nhân viên của cơ quan chúng tôi mà, Cờ Tu đến cạnh hỏi: - Hạnh có chồng chưa? Ngô Kha đùa: - Có rồi - Mấy con? - Năm đứa. Cờ Tu thiệt thà, tưởng thiệt, vẻ ngạc nhiên: - Rứa chồng Hạnh to bằng con trâu à? Ngô Kha cười to: - Con trâu to nhưng chỉ đẻ một con, heo nhỏ mà đẻ mười con. Cờ Tu cười vang: - Phải rồi. Phải rồi. Mình thua... Không biết mần răng cho con trâu đẻ 9, 10 con thì lợi lắm. Bụng con trâu to lắm chứ. Cả nhà sàn rung lên một trận cười. Quả thật cách tư duy, cách nói của đồng bào dân tộc thật thà nhưng rất vui. Ngô Kha kể: - Bữa ấy mấy chú lính giải phóng đi đường quá ngọ dừng lại nấu ăn. Củi không khô nên khói nhiều, mấy chị đi rẫy về la to: “Khói khói khói. Máy bay phát hiện ra sẽ bắn chết cả đồng bào. Bộ đội chết có bổ sung, đồng bào chết ai bổ sung”. Mấy chú lính dập tắt lửa. Một chú nhanh nhảu: “Các chị sinh con ra mà bổ sung”. Chị lớn nhất trong đám chị em đáp lại: “Cực khổ như ri mà sinh con chi, mà có sinh con còn lâu mới được đồng bào. Mình thương bộ đội còn trẻ ở ngoài Bắc về đây đánh Mỹ - Diệm, bữa sau có nấu sắn, nấu nước thì tìm củi thiệt khô nghe”. Ngô Kha kể tiếp: - Đồng bào thật thà lắm. Sau tết Mậu Thân địch chặn đường về đồng bằng, chúng mình phải lên đường tuyến lấy gạo. Đêm phải vào nhà dân ngủ nhờ. Cụ chủ nhà nói: “Mỹ - Diệm nó ném bom đêm ngày, không biết lúc mô. Bố biết các con ưng ngủ “một nhau”, nhưng không được, phải rải ra mấy cái hầm mà ở. Một hầm hai hay ba người. Đồng bào thương bộ đội “đạp dép” lắm vì thiếu đói và xáp với Mỹ - Diệm. Bộ đội “đạp giày” gạo cơm đỡ hơn, nhưng đụng B52 nhiều, thương lắm. Khi mô có B52 bố gọi các con dậy đề phòng, nếu các con không nghe, bố bắn CKC là các con tỉnh ngủ”. Anh chị em cười nói với bố: “Tiếng B52 nổ to gấp mấy lần CKC chứ bố”. Bố thong thả: “Ừ lo cho các con thì nói rứa chứ nghe cái mô trước thì dậy trước”. Đó, tấm lòng của đồng bào ta là như vậy, thương lắm. Tấm lòng của Ngô Kha với đồng bào rất gắn bó, ruột thịt. Đồng bào đặt cho anh cái tên Quỳnh A Tao là cây mía ngọt. Vì vậy Quỳnh A Tao đi đến đâu cũng được đồng bào thương. Có lần Ngô Kha đùa, dùng lý sự của đồng bào để cãi, vậy mà anh thắng, đồng bào lại tỏ ra quý anh hơn. Lần ấy Ngô Kha đi công tác với hai bạn nữ là Lợi và Đằng. Ngô Kha đi trước, Lợi và Đằng đi sau. Đến đoạn thấy máng nước, Ngô Kha thấy Ấp Lùm đang ở truồng tắm, súng và quần áo để một bên. Ngô Kha chào: - Chào Ấp Lùm, tắm mát hè. Ấp Lùm trả lời: - Mát. Quỳnh A Tao đi mô về đó. Đi sau anh có phụ nữ không? Ngô Kha vừa nói “không” xong thì Lợi và Đằng đi tới. Ấp Lùm vừa chạy lấy quần áo vừa hét to: - Mình thương Quỳnh A Tao, mà Quỳnh A Tao không thật với mình, mình giận lắm đó. Lợi và Đằng thì cười rúc rích. Sợ Ấp Lùm giận, sợ mối quan hệ với đồng bào sau này khó khăn, Ngô Kha tới, vỗ vai Ấp Lùm và nói: - Tuổi mình nhiều cái rẫy rồi, tóc mình bạc đây này, nên đi chậm. Khi mình đi thì hai o đang nằm võng và hát, khi họ đi thì mình có hai con mắt đằng trước, chứ có hai con mắt đằng sau đâu mà thấy được. Ấp Lùm hạ giọng: - Rứa họ hát bài chi? Ngô Kha liền cất tiếng hát: “Đàn đưa ta đi qua con suối, con khe. Qua nương rẫy qua bao nhiêu rừng”. Ấp Lùm và hai o cười thích thú. Ấp Lùm nói: - Xin lỗi nghe. Cái lý Quỳnh A Tao đúng. Bữa sau mình đem bắp cho. Ngô Kha bắt chước cái lý của đồng bào rất tài. Ngô Kha rất thích chơi chữ. Anh kể khi về công tác Hương Trà, gặp anh Ngọc, chân băng bó. Ngô Kha hỏi: - Anh bị thương ở mô rứa? Anh Ngọc đáp: - Cối anh. - Cối Xước Dũ, Hòn Vượn hay Mõm Xanh? - Cối đồng bào. - Trời ơi. - Trời tối vô sân nhà dân ở Xuân Hòa vấp cái cối giã gạo mới, sắc cạnh quá nên bị thương. Ngô Kha cười với chúng tôi: - Chữ “cối” anh Ngọc dùng thật thú vị. Nói không ngoa, hình như có Ngô Kha ở đâu là ở đó có tiếng cười. Không chỉ vậy, Ngô Kha còn rất giỏi làm cao dao, hò, vè, và cả làm thơ nữa. Thơ của Ngô Kha đến với mọi người cũng xôn xao như vậy. Ở chiến khu Thừa Thiên có một Khe suối đầy kỷ niệm. Ngô Kha đã làm thơ về Khe Trái: “Sông Bồ tách nhánh phải không Mà thành Khe Trái mênh mông giữa trời” Tiễn bạn gái về vùng sâu, lòng Ngô Kha không yên: “Em qua Ba Lô, em về Cắm biển Em đi dưới tầm đạn pháo Ly Hy Rọ, gáo phen ni hay tìm kiếm Biệt kích có lùng cứ đường đi?” Chuyến đi công tác Lê Xá Đông, gặp máy bay Mỹ bắn tới tập, tối ấy ngồi với du kích Phú Lương, Ngô Kha kể các trường hợp tránh đạn địch: “Hôm trước tôi ở Viễn Trình Pháo nã uỳnh uỳnh tôi xuống hầm yên Vừa rồi tôi lên Quảng Xuyên Súng bắn liền liền tôi chạy lăng xăng Hôm nay ở trạm Ba Lăng Đạn nổ tằng tằng tôi nép vồng khoai”. Cả toán du kích ngồi xung quanh cười vang. O Mến ở Đông Đổ đến sát bên Ngô Kha: - Răng anh không làm cho làng em ít câu? Ngô Kha liền đọc: “Quê em làm Đông Đề Trời mưa, đường đi trơn trợt..” Mấy o kêu: - Thơ chi lạ rứa anh Kha - Cứ bình tĩnh nghe tiếp. Ngô Kha đọc: “Mỗi khi Mỹ về, du kích súng rào” Các o thích chí cười râm ran. - Hay, cái đó đúng là làng em rồi đó. Gặp gì Ngô Kha cũng có thể làm thơ. Đây là cô nữ sinh Sài Gòn đi trên đường rừng Trị Thiên: “Duyên dáng nữ sinh Sài Gòn Bồng bềnh suối tóc gót son đường rừng Một thời... sợi nhớ sợi thương. Dốc cao suối thẳm dặm đường xa xăm”. Bài thơ tôi thích nhất là bài anh nhận được thư con sau 8 năm xa cách: “Mấy trăm cây số mà sao vời vợi Con lật, con đi, con nói bao giờ! Chắc mẹ vui khi con học i tờ Mong cha đọc dòng thư thứ nhất Ôi thời gian, thời gian trong nét mực Có đời con thành trang sách mới tinh Nét chữ con hay búp tay xinh Gửi cho cha chan hòa mặt giấy” Chuyện cũ Trường Sơn xưa đã mấy chục năm trường, vậy mà nhiều khi ngồi với nhau Ngô Kha còn nói: “Mình thấy như mình chưa ra khỏi rừng”. Tình cảm của anh với những kỷ niệm sâu nặng biết bao. Ước chi Ngô Kha chép lại những ca dao, hò, vè, thơ và những mẩu chuyện của anh, in lại trong một tập, tôi thèm đọc những xôn xao ngày ấy của anh để được sống lại một thời chúng ta đã sống. Có lẽ đó là một tập sách về Trường Sơn rất thú vị. N.Q.H (264/2-11) |
Rất nhiều hoa, rất nhiều nụ cười đã hiện diện một cách cởi mở và đầm ấm trong buổi chiều ngày 18.7.2008 tại Trung tâm Du lịch và Dịch vụ Festival - Huế, nơi diễn ra Lễ kỷ niệm 25 năm Tạp chí Sông Hương phát hành số báo đầu tiên (1983-2008).
HỒ THẾ HÀĐến nay, Tạp chí Sông Hương đã tròn một phần tư thế kỷ (1983-2008) kể từ số đầu tiên được ra mắt bạn đọc. Hai mươi lăm năm đủ để vui buồn ôn lại những chặng thác ghềnh và phẳng lặng của một dòng sông từ nguồn ra biển.
ĐẶNG VĂN VIỆTKỷ niệm 63 năm Cách mạng Tháng TámSau ngày đảo chính (9-3-1945), Nhật lật đổ Pháp. Phong trào Việt Minh như một luồng gió mạnh, thổi từ miền Bắc vào miền Trung, miền Nam, thức tỉnh lòng yêu nước, thương nòi của người dân đất Việt, thúc giục mọi người sẵn sàng để chớp thời cơ, giành lại chính quyền về tay nhân dân.
TRẦN THÙY MAIThuở trước, mỗi đêm cuối năm, anh Hải Bằng bao giờ cũng đến thăm trụ sở Hội Văn nghệ, rồi túc tắc ngự trên chiếc xe babeta màu đỏ, ghé thăm nhà bạn bè thân hữu đó đây trước khi quay về để kịp đón giao thừa.
NGUYỄN QUANG HÀCuối cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cả nước xôn xao về vụ án Trần Dụ Châu.
NGUYỄN KHẮC PHÊTrong một cuộc vui gần đây, nhân nhắc đến việc bình chọn các nhân vật, sự kiện nổi bật trong năm trên báo chí, có ý kiến phong cho nhà văn Hồng Nhu là người đạt nhiều cái “nhất” nhất trong làng văn ở Huế.
TRẦN THỊ TRƯỜNG - Chúng ta lại thắng rồi. Thỉnh thoảng lão lại reo lên như thế khi bất chợt gặp một người mà lão coi là bạn. Lão nói câu ấy cả khi lão đang thoi thóp trên giường bệnh, miệng méo xệch lão nói một cách khó khăn nhưng vừa nói lão vừa cười khiến cho người ta yên tâm là lão bắt đầu sống trở lại, cái chết còn lâu mới quật được lão.
PHẠM QUANG TRUNGAnh Cao Xuân Hạo kính mến!Trước tiên, xin thú nhận, tôi là người mê say tên tuổi anh đã từ lâu. Tuổi trẻ và sau đó là những năm tháng trực tiếp giảng dạy, nghiên cứu, phê bình văn chương đã đưa tôi đến những trang dịch văn xuôi Nga – Xô viết đầy sức cuốn hút của anh, như Chuyện núi đồi và thảo nguyên, Chiến tranh và hòa bình, Truyện ngắn Gorki, Con đường đau khổ, Tội ác và trừng phạt…
VINH HUỲNHLTS: Có bạn đọc gửi thư đến Toà soạn chúng tôi đề nghị nếu chọn topten sự kiện nổi bật trong làng báo chí năm 2001 thì không nên bỏ qua “hội chứng” đánh vào các trường đại học, trong đó có Đại học Nghệ thuật Huế và trường Viết văn Nguyễn Du.
NGUYỄN KHẮC THẠCH(Tham luận đọc trong hội thảo)Cho đến đầu thế kỷ 21 này, chúng ta vẫn đang đứng trước nguy cơ tụt hậu về mặt kinh tế đã là điều đáng sợ nhưng cái đáng sợ hơn là nguy cơ vong bản về mặt văn hoá. Xu thế toàn cầu hoá đang xâm nhiễm và xâm thực vào đời sống chúng ta một cách ngọt ngào mà chua cay, dịu êm mà đẫm máu.
TRẦN HOÀNLTS: Từ ngày 4 đến ngày 7 tháng 12 năm 2001 đã diễn ra cuộc tập huấn - hội thảo báo chí văn nghệ địa phương tại thủ đô Hà Nội. Nhạc sĩ Trần Hòan, Phó Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương, Phó Chủ tịch UBTQ.LH các Hội V.H.N.T Việt Nam đã đọc báo cáo đề dẫn hội nghị. Sông Hương xin trích đăng một phần trong báo cáo đó (đầu đề do chúng tôi đặt).
NGUYỄN KHOA ĐIỀM(TBT: 1983 - 1986)Bây giờ nhìn lại những số Sông Hương đầu tiên (số 1 ra mắt tháng 6-1983) không khỏi cảm thấy tờ tạp chí như một… cô gái quê, giản dị, khiêm nhường, có vẻ… tồi tội. Giấy đen. Bìa mỏng. Bát chữ typo chỗ đậm chỗ nhạt. Sông Hương làm sang cho in ảnh tác giả, khốn nỗi, ảnh loè nhoè, không rõ mặt. Giá bao cấp 7 đồng/số, vẫn bị chê đắt. Được cái lượng bản in ngay số đầu là 4.000 bản. Trông khí sắc cuốn tạp chí vẫn chưa xa cái thời tranh đấu chống Mỹ, in sách báo trong gác trọ sinh viên.
TÔ NHUẬN VỸ(TBT: 1986 - 1989)Có năm kỷ vật của Hải Bằng tặng tôi và gia đình, từ ngày anh còn sống cho đến nay, sau 10 năm anh mất, tôi vẫn nhìn ngắm và chăm sóc hàng ngày. Đó là bức tranh hồ sen, là hai câu thơ anh viết trên giấy đặc biệt, là tất cả các tập thơ anh in từ sau 1975, là đôi chim hạc anh tạo bằng rễ cây và con chó Jò bé xíu.
NGUYỄN KHẮC PHÊ(TBT: 1991)Tôi có may mắn được làm Phó Tổng biên tập nhiều năm cho hai “đời” Tổng biên tập nổi tiếng là Nguyễn Khoa Điềm và Tô Nhuận Vỹ, nhưng đến “phiên” mình được gánh vác trọng trách thì chỉ đảm đương được một thời gian ngắn. Đã đành do tài hèn sức mọn, nhưng cũng vì đó là giai đoạn khó khăn sau “Đổi Mới”, chúng ta đang phải tìm đường, nhiều quan niệm - nhất là về văn học nghệ thuật chưa dễ được nhất trí…
HỒNG NHU(TBT: 1992 - 1997)Thời gian như bóng câu qua cửa. Mới đó mà đã một phần tư thế kỷ, tờ tạp chí Sông Hương có mặt cùng bạn đọc trong và ngoài nước.
NGUYỄN KHẮC THẠCH(TBT: 2000 - 2008)Vậy là đã tròn một phần tư thế kỷ. Ngày ấy, cũng vào mùa “Hạ trắng” nắng lên thắp đầy như nhạc Trịnh, tờ Tạp chí Sông Hương - tạp chí sáng tác lý luận phê bình nghiên cứu văn học nghệ thuật của xứ Huế được ra đời và đi qua cái ngưỡng “vạn sự khởi đầu nan” một cách kỳ diễm, đầy ấn tượng.
MAI VĂN HOANSáng 8 - 5 - 2008, ghé quán 26 Lê Lợi (trụ sở Hội Văn nghệ Thừa Thiên Huế) ngồi uống cà phê với hai nhà thơ Kiều Trung Phương và Ngàn Thương, tôi vô cùng sửng sốt khi Ngàn Thương cho biết người suốt đời đi tìm chân dung Hàn Mạc Tử là anh Phạm Xuân Tuyển đã mất cách đây gần 7 tháng tại Phan Thiết.
I.Con người ấy từng mang tên Nguyễn Sinh Cung, và tên chữ Nguyễn Tất Thành, trước khi đến với tên Nguyễn Ái Quốc, đã trải một tuổi thơ vất vả vào những năm kết thúc thế kỉ XIX, để bước vào thế kỉ XX với một niềm khao khát lớn: “Khi tôi độ 13 tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ: tự do, bình đẳng, bác ái. Đối với chúng tôi, người da trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đã nói thế. Và từ thủa ấy tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn sau những chữ ấy...” (1)
Từ rất nhiều năm nay tôi rất muốn bày tỏ đôi điều về những bi kịch cuộc đời mà nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường (HPNT) từng chịu đựng và trăn trở, từng nén vào lòng để sống và sáng tác.
Chiều 17.11 vừa rồi, ở địa chỉ 26 Lê Lợi đã diễn ra cuộc tọa đàm giữa đoàn nhà văn Trung Quốc với Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Huế. Nhà thơ Phạm Tiến Duật, Phó Ban đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam, Tổng biên tập Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ đã tháp tùng đoàn nhà văn bạn từ Hà Nội tới Huế.