Trao đổi với ông Hà Văn Lâu một chút vui buồn cùng Huế

15:35 29/03/2019

LƯU TRỌNG VĂN

(thực hiện)

Ông Hà Văn Lâu và Tổng thư ký LHQ Cuellar

Lưu Trọng Văn (L.T.V):
Nhà chính trị, nhà quân sự, nhà ngoại giao, chuyên viên kinh tế, hay một công dân, hay một người Huế yêu Huế, ông thích nói chuyện với cương vị nào?

Hà Văn Lâu (H.V.L):
Nói chuyện về Huế, về quê hương, thân tình hơn, thích thú hơn.

L.T.V:
Ông thích được tôi hỏi ông câu đầu tiên là câu gì?

H.V.L:
Theo đề nghị của ông tổng giám đốc UNESCO, UNESCO đã ra nghị quyết ủng hộ 4,5 triệu đô la Mỹ để khôi phục lại các công trình lịch sử của cố đô Huế đã bị tàn phá bởi nhiều cuộc chiến tranh. Nhưng tiếc rằng hồi đó do chiến tranh biên giới tây-nam, do Mỹ và các nước phương Tây bao vây kinh tế Việt Nam, không chịu góp tiền để UNESCO thực hiện nghị quyết của mình. Đến bây giờ nghị quyết đó vẫn còn giá trị. Bao giờ UNESCO sẽ thực hiện nghị quyết của mình?

L.T.V:
Ông sinh ra và lớn lên ở ngã ba Sình... nơi có câu ca:

"Đò về Đông Ba đò qua Đập Đá
đò xuôi Vĩ Dạ thẳng ngã ba Sình”,

từ ngã ba Sình bên dòng Hương ấy ông làm cách mạng, rồi năm 1947 cùng các chiến sĩ trong đoàn Cao Vân ông xa Huế lên chiến khu, đúng 30 năm sau ông trở lại...

H.V.L:
Ngã ba Sình trước rất tấp nập xuồng ghe chèo từ cửa Thuận lên buôn bán cá. Sau này xuồng ghe được gắn máy, người ta đi thẳng tới chợ Đông Ba, ngã ba Sình không ai ghé nữa, tiêu điều, xơ xác.

L.T.V:
30 năm sau trở lại, ông thấy dòng Hương vẫn trong vắt?

H.V.L:
Vẫn trong vắt, thấy cả rong.

L.T.V:    
Còn đẹp không?

H.V.L:
Trời lặng gió sông Hương như một tấm gương.

L.T.V:
Một vẻ đẹp buồn buồn?

H.V.L:
Buồn hay không là do mình, mình buồn thì thấy cảnh buồn.

L.T.V:
Trong vắt đồng nghĩa với sự nghèo?

H.V.L:
Nước lũ về, phù sa thiếu gì.

L.T.V:
Sông Hương... với ông đó là hương gì?

H.V.L:
Hương sen.

L.T.V:
Tại sao?

H.V.L:
"Trong bùn gì đẹp bằng sen". Nhưng sự thật, Huế không đẹp như trước vì đôi bờ dòng Hương bị trụi cây, nhà cửa xây cất lộn xộn.

L.T.V:
Cầu Tràng Tiền gãy nhịp có làm thốn con mắt của ông không? Theo tôi được biết 11 giờ đêm ngày 19 tháng 12 năm 1946 với tư cách Trung đoàn trưởng trung đoàn Cao Vân chiến đấu ở Huế, ông đã trực tiếp ra lệnh cho đội công binh do một anh tên là Vừa chỉ huy, châm ngòi 500 kg thuốc nổ phá cầu Tràng Tiền.

H.V.L:
Chúng tôi phải phá cầu ngăn quân Pháp ở bờ Nam sông Hương lại để bảo vệ nhân dân và lực lượng của ta.

L.T.V:
Với con mắt khoa học quân sự hôm nay ông vẫn thấy biện pháp đó là cần thiết?

H.V.L:
Không có cách khác. Năm 1984 - 1988 là đại sứ của ta ở Pháp, tôi đã lục tài liệu hồ sơ về cầu Tràng Tiền ở Bộ Giao thông công chánh Pháp, sau hai năm tôi mới tìm thấy. Tôi vận động những Việt kiều yêu Huế, và cả chính phủ Pháp giúp Huế khôi phục lại cầu Tràng Tiền như xưa.

L.T.V:
Đến bây giờ cây cầu ấy vẫn gãy nhịp.

H.V.L:
Tiền quyên góp không thể đủ, bởi chi phí khôi phục cầu tốn kém hàng chục triệu frăng, phải cần có sự hỗ trợ của chính phủ Pháp...

L.T.V:
Xin được hỏi ông lan man một chút, ông thích nhất lăng nào ở Huế?

H.V.L:
Minh Mạng.

L.T.V:
Vì sao?

H.V.L:
Đơn sơ mà trang nghiêm, một quần thể thiên nhiên hài hòa, dân tộc, độc đáo. Sau lăng Minh Mạng tôi thích lăng Tự Đức. Này anh bạn trẻ, núi Ngự Bình của Huế mình ngày xưa đẹp lắm, bây giờ trụi lủi hết...

L.T.V:
Đi rất nhiều nơi, nhiều nước, ông có thường xuyên gặp người gốc Huế?

H.V.L:
Người Huế tha phương nhiều.

L.T.V:
Đa số họ là trí thức?

H.V.L:
Trí thức tài giỏi nắm nhiều ngành, nhiều nghề, có người thuộc hoàng phái, có người ngoài hoàng phái.

L.T.V:
Còn chính tại Huế, thì trí thức có phần trụi lủi như cây trên núi Ngự kia, ông có nghĩ đến sự trở về của chất xám?

H.V.L:
Nhiều người về chơi rồi lại đi.

L.T.V:
Vì sao, thưa ông?

H.V.L:
Đất nước cần nhân tài. Bác Hồ sang Pháp trực tiếp mời trí thức trở về trong đó có Trần Đại Nghĩa, Trần Hữu Tước v.v...

L.T.V:
Bây giờ lại có một dòng chảy ngược...

H.V.L:
Ta chưa có đường lối thật cụ thể rõ ràng khuyến khích chất xám trở về, mặc dù lác đác trong các nghị quyết cũng có nói đôi câu.

L.T.V:
Nhưng Tổ quốc là mẹ.

H.V.L:
Đúng, mọi người con phải có nghĩa vụ với Tổ quốc của mình.

L.T.V:
Ở đây không chỉ có vấn đề chất xám vượt biển, vượt biên, ta đang nói về Huế, ông có thấy rằng rất nhiều trí thức Huế lang bạt vào Đà Nẵng, vào thành phố Hồ Chí Minh?

H.V.L:
Bởi có sự chênh lệch...

L.T.V:
Sao nét mặt ông có vẻ buồn vậy?

H.V.L:
Tự dưng tôi nhớ hồi 1947, bộ đội rời Huế lên chiến khu, khổ sở không tưởng tượng nổi, một viên ký ninh chia cho 5 người uống, chăn mền không có phải quấn bao bố, đói, ăn ngô, sắn thay cơm. Tôi còn nhớ bộ đội đi tác chiến qua bà Quế ở chiến khu nếu thắng bà cho mỗi anh một miếng đường đen bằng ngón tay út...

L.T.V:
Xin hỏi ông câu cuối cùng, người ta thường đùa. Vì do ông tên "Lâu" nên phải quá lâu làm đại tá?

H.V.L: (cười)
Hồi 1954, hội nghị Giơ ne vơ tôi được phong "đại tá" trong lúc bộ đội ta chưa có quân hàm. Phải phong vậy bởi đại diện quân Pháp đề hội đàm là đại tá... Thế rồi từ đó tôi chuyên làm ngoại giao... Mà ở ngạch ngoại giao này cán bộ quân sự chỉ cần ở cấp đại tá là cao nhất... Cho nên hơn 20 năm tôi cứ mang lon... đại tá.

TP. Hồ Chí Minh - Tháng 3 /1991.
(TCSH46/04-1991)





 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HÀ MINH ĐỨC                   Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.

  • BĂNG SƠN           Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.

  • PHAN THUẬN THẢO                Chiều chiều trước bến Vân Lâu                Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm,                Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông.                Thuyền ai thấp thoáng bên sông,                Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non.                                              (Ưng Bình Thúc Giạ)

  • LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!

  • BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm

  • MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.

  • VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.

  • HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.

  • MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.

  • VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.

  • NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar  M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                       Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.

  • TÔN NỮ  KHÁNH TRANG              Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.

  • TRƯƠNG THỊ  CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.

  • NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.

  • BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.

  • NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.

  • PHAN THUẬN AN            Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương.                                              (Bùi Giáng)

  • NGUYỄN VĂN THỊNHCũng như trên cả nước, trước cách mạng tháng Tám, làng (tên gọi chữ Hán là xã), ở Thừa Thiên Huế là một đơn vị cơ bản trong tổ chức hành chính của các vương triều.