Nhà văn Trang Thế Hy đã bước vào tuổi 90. Một đời viết kéo dài suốt 70 năm, ông không viết nhiều nhưng hễ công bố tác phẩm là làng văn phải “giật mình”
Nhà văn Trang Thế Hy. (Ảnh do NXB Trẻ cung cấp)
Ông già héo queo như cây kiểng còi là cách Trang Thế Hy tự gọi mình, trong khi nhiều người thường trìu mến gọi nhà văn là ông Tư Sâm. Đã hơn 20 năm ông rời xa chốn phồn hoa Sài Gòn để “đi chỗ khác chơi”. “Chỗ khác” ở đây là mảnh vườn rợp mát bóng dừa, nơi ông sinh ra ở huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre. Nguyên văn câu này được ông nói vào tháng 10-1992, khi nhận cuốn sổ hưu trên tay: “Tôi sẽ rời thành phố để đi chỗ khác chơi vì đã hoàn thành nhiệm vụ”. Trang Thế Hy ít khi đăng đàn diễn thuyết bởi như ông tâm niệm, con người ta mất 2 năm để học nói nhưng mất đến 60 năm để học lặng im.
Cái nhìn chân, thiện
Độc giả đọc kỹ tác phẩm của Trang Thế Hy sẽ nhớ câu nói mà sau này giới viết văn Nam Bộ thường trích dẫn - bắt nguồn từ chú Tư Chơi, nhân vật trong truyện ngắn Chút hào quang từ mảnh vỡ của một ngôi sao buồn ông viết năm 1989, khi anh nhà văn về Sài thành tìm chất liệu sống, đã học được bài học đau đớn từ một ngôi sao sắp hết thời: “Khi nào biết mình viết hết được rồi thì phải đi chỗ khác chơi, đừng bẹo hình bẹo dạng ở chỗ trường văn trận bút và tuyệt đối đừng để những người hâm mộ mình đọc những câu lếu láo, nhớ chưa?”.
Câu nói của nhân vật chú Tư Chơi đó thực ra đã là triết lý làm nghề, đồng thời cũng là phương châm sống mà nhà văn Trang Thế Hy hằng tâm niệm.
Mừng thọ ông tròn 90 tuổi, NXB Trẻ in liền một lúc 4 cuốn sách của cây bút Nam Bộ đặc biệt này: 3 tập truyện ngắn Mưa ấm, Tiếng khóc và tiếng hát, Nợ nước mắt cùng tập thơ song ngữ Đắng và ngọt. 13 bài thơ của Trang Thế Hy được 2 dịch giả Nguyễn Bá Chung và Martha Collins dịch sang tiếng Anh, còn 11 bài thơ của Rabindranath Tagore được Trang Thế Hy chuyển ngữ sang tiếng Việt.
Bộ sách gom lại hầu hết tác phẩm lưu trữ và sưu tầm của nhà văn được mệnh danh là “người hiền của làng văn Nam Bộ”. Độc giả nghẹn ngào xúc động với “Anh Thơm râu rồng” và cuộc chiến đấu sinh tử khốc liệt của những người tù chính trị nơi hầm giam, với cả ký ức thơ ấu tức tưởi và cuộc sống đọa đày của dân đen dưới chế độ cũ. Trải qua giai đoạn chiến tranh, với Bà mẹ già và thúng khổ qua, Con cá không biệt tăm…, độc giả thấy được những chiêm nghiệm của ông trước thời cuộc, trước đổi thay, trước bao nhiêu vấn đề hậu chiến.
Vượt lên trên hiện thực đầy rẫy những khói lửa đạn bom và khổ đau, trang văn của Trang Thế Hy luôn tồn tại cái nhìn chân, thiện như ánh mắt nhân từ, hiền hậu và bao dung với con người, với cuộc đời.
Lượm lặt những mảnh “con người” nhất
Triết lý sống và viết của nhà văn lão làng thể hiện rất mạnh mẽ không chỉ trong Chút hào quang từ mảnh vỡ của một ngôi sao buồn mà ở nhiều câu chuyện khác, như Con mèo hoang và nhà thơ có gia cư hay Nợ nước mắt. Bằng một giọng kể từ tốn, những câu chuyện mang đầy tính triết lý về sự sống, về tình người đã đi vào lòng độc giả rất đỗi gần gũi, giản dị, với ngôn từ, câu chữ đặc sệt Nam Bộ.
Nhà văn Lê Quang Trang, Chủ tịch Hội Nhà văn TP HCM, khẳng định: “Cuộc đời của nhà văn lão làng Trang Thế Hy cực kỳ chìm nổi. Tuổi trẻ, ông đi theo kháng chiến, vào rừng và sống với tư cách của người cầm bút chân chính. Cả đời ông đã luôn tuân thủ ngặt nghèo triết lý sống và viết một cách nghiêm túc nhất”.
Theo nhà văn Lê Quang Trang, Trang Thế Hy viết không nhiều, chủ yếu là truyện ngắn, khoảng 50 truyện, một số bút ký, thơ dịch và một tập thơ mỏng gồm 13 bài. Song, các sáng tác đều chứng tỏ ông thực sự là người kiệm chữ, sâu sắc, ý tứ nghiêm cẩn, kiến thức rộng nhưng luôn khiêm tốn, hòa đồng.
“Với những sáng tác đã công bố vừa mang nặng tính triết lý nghề nghiệp nhưng đồng thời lại chọn được cho mình một ngôn ngữ riêng, rất gần gũi với người đọc và đặc thù Nam Bộ, Trang Thế Hy xứng đáng là bậc thầy đáng kính trong văn đàn miền Nam” - nhà văn Lê Quang Trang nhận xét.
Nhà thơ Phạm Sỹ Sáu, Chủ tịch Hội đồng thơ Hội Nhà văn TP HCM, đánh giá: “Nhà văn Trang Thế Hy luôn khẳng định bút lực của mình ở những tác phẩm gắn bó chặt chẽ với đề tài cuộc chiến tranh nhân dân. Ông vẫn luôn giữ được giọng văn hiền từ và tâm niệm nhiệm vụ của mình là đi lượm lặt những mảnh “con người” nhất đang bị lãng quên, bị bỏ lại, bị văng đâu đó trong cuộc đời xô bồ với hàng ngàn vấn đề thời sự nóng bỏng và đau đớn”.
Nhà thơ Phạm Sỹ Sáu cho biết đến khi nhận sổ hưu, Trang Thế Hy xuôi về vườn, không viết nữa nhưng lạ là ông vẫn theo dõi thời sự và cực kỳ gắn bó với các lớp viết văn đi sau. Những người viết khác rất khó làm được như vậy. “Thế nên, làng văn Nam Bộ quý trọng nhân cách của một nhà văn, học hỏi từ ông tinh thần của một người cầm bút thật sự và coi ông như một người bạn văn lão làng, tràn đầy kiến thức và tình nhân ái” - nhà thơ bày tỏ.
Người hiền của văn học Nam Bộ
Nhà văn Trang Thế Hy, tên thật là Võ Trọng Cảnh, còn có các bút danh khác: Phạm Võ, Văn Phụng Mỹ, Triều Phong, Vũ Ái, Văn, Minh Phẩm. Ông từng là Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn TP HCM, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam và hiện là Chủ tịch danh dự Hội Văn học Nghệ thuật Nguyễn Đình Chiểu (tỉnh Bến Tre).
Sáng mai, 12-11, tọa đàm Nhà văn Trang Thế Hy, người hiền của văn học Nam Bộ sẽ diễn ra tại NXB Trẻ (161B Lý Chính Thắng, quận 3) với sự phối hợp tổ chức của Hội Nhà văn TP HCM và Hội Văn học Nghệ thuật Nguyễn Đình Chiểu. Khách mời - nhà văn Lê Quang Trang, Chủ tịch Hội Nhà văn TP HCM và các nhà văn, nhà thơ: Nguyễn Duy, Ý Nhi, Ngô Thị Kim Cúc, Lê Thanh My... - sẽ trao đổi xung quanh cuộc đời và sự nghiệp của ông. Nhà thơ Phạm Sỹ Sáu là người dẫn chuyện buổi tọa đàm này.
NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009 và hết)
Nguyễn Khắc Phê quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Anh xuất thân trong một gia đình trí thức. Bố anh từng đậu Hoàng Giáp năm 19 tuổi. Các anh trai đều là bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi... Có người nói vui “Nguyễn Khắc Phê con nhà quan tính nhà lính”.
VĂN CẦM HẢI(Đọc “Ngôi nhà vắng giữa bến sông”, Tập truyện ngắn của Nguyễn Kiên - Nxb Hội Nhà văn, 2004)
NGUYỄN QUANG SÁNGMấy năm gần đây, dân ta đi nước ngoài càng ngày càng nhiều, đi hội nghị quốc tế, đi học, đi làm ăn, đi chơi, việc xuất ngoại đã trở nên bình thường. Đi đâu? Đi Mỹ, đi Pháp, đi Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc... Nhà văn Văn Cầm Hải cũng đi, chuyến đi này của anh, anh không đi những nơi tôi kể trên, anh đi Tây Tạng, rất lạ đối với tôi.
HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.
LÊ VĂN THÊSau sáu năm (kể từ 2002) nhà văn Cao Hạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, (cuối năm 2008); Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị mới có thêm một nhà văn được kết nạp. Đó là Văn Xương.
NGÔ MINHTrong đợt đi Trại viết ở Khu du lịch nước nóng Thanh Tân, anh em văn nghệ chúng tôi được huyện Phong Điền cho đi dạo phá Tam Giang một ngày. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thế là người dẫn đường. Anh dân sở tại, thuộc lòng từng tấc đất cổ xưa của huyện.
PHẠM PHÚ PHONG…Làng em đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê em kết nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGKể từ tập thơ đầu tay (Phía nắng lên in năm 1985), Huyền thoại Cửa Tùng (*) là tập thơ thứ mười (và là tập sách thứ 17) của Ngô Minh đã ra mắt công chúng. Dù nghề làm báo có chi phối đôi chút thì giờ của anh, có thể nói chắc rằng Ngô Minh đã đi với thơ gần chẵn hai mươi năm, và thực sự đã trở thành người bạn cố tri của thơ, giữa lúc mà những đồng nghiệp khác của anh hoặc do quá nghèo đói, hoặc do đã giàu có lên, đều đã từ giã “nghề” làm thơ.
Võ Quê được nhiều người biết đến khi anh 19 tuổi với phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam (1966). Lúc đó, anh ở trong Ban cán sự Sinh viên, học sinh Huế. Võ Quê hoạt động hết sức nhiệt tình, năng nổ bất chấp nguy hiểm với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá vào chính nghĩa.
PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.
ĐẶNG TIẾNNhà xuất bản Trẻ, phối hợp với Công ty Văn hoá Phương Nam trong 2002 đã nhẩn nha ấn hành Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, trọn bộ bốn cuốn. Sách in đẹp, trên giấy láng, trình bày trang nhã, bìa cứng, đựng trong hộp giấy cứng.
NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 244 tháng 6-2009)Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháuDiệu Linh, và những người bạn khác,lớn lên trong những hoàn cảnh khác.
NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".
HOÀNG KIM DUNG (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)
PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...
Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.
ANH DŨNGLTS: Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.
SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.
NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?