Trần Thanh Mại và phê bình tiểu sử

08:28 08/06/2009
ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

Có điều,Trông dòng sông Vị, nhiều lúc tiểu sử Tú Xương dường như lại là mục đích, chứ không phải là một phương tiện để soi sáng tác phẩm. Bởi thế, Vũ Ngọc Phan sau này, trong Nhà văn hiện đại (1942), đã đánh đồng Trông dòng sông Vị với Tuy Lý Vương, một thiên kí sự lịch sử, và gọi chung đó là truyện kí. Không thể trách Vũ Ngọc Phan, người còn đang neo mình ở một phương pháp phê bình khác, là không đoán được anh hùng giữa trần ai. Tuy nhiên, nếu ở Trông dòng sông Vị, phê bình tiểu sử mới chỉ định hướng, thì ở Hàn Mặc Tử, thân thế và thi văn (1941) nó đã định hình và cắm một mốc trên hành trình tư tưởng phê bình văn học Việt Nam hiện đại. Phê bình Hàn Mặc Tử, Trần Thanh Mại đã nêu lên mối quan hệ giữa thân thế và thi văn, tức lấy con người để cắt nghĩa tác phẩm.

Phê bình tiểu sử học hình thành ở châu Âu vào nửa đầu thế kỉ XIX cùng với tên tuổi của Sainte - Beuve (1804-1869). Nó ra đời như là một sự chống lại mĩ học của Aristote, coi cái đẹp là sự mô phỏng: mô phỏng tự nhiên, mô phỏng hiện thực và mô phỏng những trước tác mẫu mực. Thi pháp học (theo nghĩa là một lí thuyết văn chương) của Aristote, bởi thế, là thi pháp học quy phạm. Sự không quan tâm đến chủ thể sáng tạo của nó đã, vô hình trung, biến nghệ thuật thành thủ công. Thời Đại Mới với sự phát triển cao của ý thức cá nhân, đặc biệt là cá nhân lãng mạn, đã hết sức quan tâm đến chủ thể sáng tạo. Một con người cá nhân cụ thể nào đó là kẻ sáng tạo đích thực ra văn chương. Tác phẩm, xét cho cùng, là một thứ con đẻ của nhà văn, nên theo quy luật “giỏ nhà ai quai nhà ấy”, thì nó phải in dấu những đặc điểm của người làm ra nó, như khí chất, tính tình, thiên hướng, tư tưởng, giáo dục... Sainte - Beuve đã tìm hiểu tác phẩm qua việc nghiên cứu tác giả, đúng hơn chân dung tâm lí tác giả. Ông đã có những tổng kết ngắn gọn về từng tác giả (mà về sau đã trở thành một thứ khuôn mẫu rất năng sản) như Montaigne tâm hồn trong sáng, Lamartine đa sầu đa cảm...

Cũng lấy con người cắt nghĩa tác phẩm, nhưng khác với Sainte - Beuve coi tâm lí con người là bất biến, Trần Thanh Mại không chỉ chú ý đến tâm lí, mà còn quan tâm đến cả xã hội. Tuy nhiên, trong ba yếu tố thiên, địa, nhân, ông nói đến ở đầu sách (làm tôi nhớ đến một bộ ba khác của H. Taine: thời điểm, địa điểm và chủng tộc) ông chỉ chú trọng vào nhân, tức con người, con người xã hội. “Với những phương pháp mới, xưa nay chưa từng có trong lịch sử văn học Việt Nam, tôi (Trần Thanh Mại) đã phân tích ra từng cử chỉ, từng tính tình của nhà thi sĩ, từng giai thoại trong đời người. Những cái ấy, mà bề ngoài tưởng như vô bổ ích, và chỉ để kéo cho dài dòng, tựu trung đều ăn nhịp với nhau như những vòng của một sợi dây chuyền để mà ảnh hưởng đến cái đích của người viết sách muốn đi tới: cắt nghĩa thi phẩm của nhà thơ”.

Để cầm bút viết về Hàn Mặc Tử, Trần Thanh Mại đã đọc thơ Hàn, đọc thư từ Hàn gửi cho em trai là Trần Thanh Địch và cháu trai là Trần Tái Phùng, những người bạn thân của Hàn. Ngoài ra, ông còn nhiều lần trực tiếp hỏi chuyện bà Nguyễn Thị Duy mẹ nhà thơ và nhiều người quen biết khác. Nhà nghiên cứu cũng cất công tìm đến những nơi mà Hàn Mặc Tử đã sống như Đồng Hới, Huế, Quy Nhơn - nhà thương Quy Hòa, Phan Thiết... Nhờ thế, Trần Thanh Mại đã có hẳn một khối tư liệu tương đối phong phú về con người Hàn Mặc Tử và chỉ ra được chính xác những yếu tố chủ yếu chi phối cuộc đời và thơ văn của thi sĩ. Đó là bộ ba bệnh tật, đàn bà tôn giáo.

Thực ra, tôi nghĩ, con người là một thể thống nhất, sáng tạo phẩm cũng là một thể thống nhất, nên dù có phân chia thành ba yếu tố rạch ròi để nghiên cứu thì, xét cho cùng, chúng cũng chỉ là ba đỉnh của cùng một tam giác định mệnh chi phối cuộc đời nhà thơ. Bởi thế, nói đến yếu tố này không thể không bao hàm ít nhiều hai yếu tố kia. Nhưng biết làm sao được, con người, nhất là các nhà khoa học, vốn là một động vật thích phân loại. Chia ra để mà tìm hiểu, tìm hiểu rồi để hợp một.

Bệnh tật với những người sáng tạo, đặc biệt là sáng tạo nghệ thuật, dường như là kẻ song sinh. Các vĩ nhân đa số đều mắc một căn bệnh trầm kha nào đó. Có lẽ, chủ yếu là bệnh tâm thần. Dostoievsky bị mắc bệnh động kinh. Ông làm việc giữa hai cơn choáng ngất. Và, những cái chết ngắn, chết trong khi sống đó đã khiến ông nhìn được đáy lõi cuộc đời, bản chất cuộc sống là đau khổ và con đường để cứu chuộc thế giới là cái đẹp. Nietzsches cũng bị hành hạ bởi bệnh thần kinh. Và với ông làm việc là một phương thức chữa bệnh, để khôi phục lại sức khỏe tâm thần... Bệnh trọng thường làm rạn nứt bề mặt hữu thức cho vô thức trào phun. Mà, hình như, mọi sáng tạo đều bị thúc đẩy bởi những xung lực của vô thức. Bệnh trọng, nếu không phải là bà đỡ của vô thức như vậy, thì chí ít cũng là điều kiện để người sáng tạo có một góc nhìn riêng, một cửa sổ riêng quan sát cuộc đời.

Bệnh phong, rõ ràng, đã đưa Hàn Mặc Tử và thơ ông rẽ theo một hướng khác. Vốn là một người làm báo, thích hoạt động, ưa giao tiếp, nhìn đời một cách lãng mạn, nay Hàn Mặc Tử phải sống trốn tránh (vì sợ Sở Vệ sinh hốt đi) trong cô độc và trong cảm giác nhục nhã của kẻ bị Thượng Đế trừng phạt. Nhà thơ đã thu toàn bộ thế giới thực tại vào bản thân mình để có thể từ đó mở ra một thế giới khác, rộng lớn đến vô biên. Thế giới của mộng mị, tiềm thức và xuất thần.

Trần Thanh Mại đã trình bày kĩ về nguyên nhân mắc bệnh của Hàn Mặc Tử, quá trình chữa chạy và trạng thái bệnh lí của nhà thơ. Nhưng điều đáng lưu ý hơn là ông đã chỉ ra những mối quan hệ nhân quả giữa bệnh tật và thơ ca. Theo ông, mỗi kì trăng sáng có thể có những tác động huyền bí nào đó đến bệnh cùi. Vi trùng hoạt động mạnh hơn, nên bệnh nhân đau đớn hơn. Trăng, vì thế, đã trở thành một ám ảnh lớn trong thơ Hàn. Biểu tượng trăng (và kế đó như một hệ quả là các biểu tượng hồn máu) là những nhịp mạnh của thơ Hàn được Trần Thanh Mại, người đầu tiên đề cập đến. Ngoài ra, nhà phê bình cũng còn nhặt được ở trong thơ Hàn Mặc Tử nhiều từ ngữ mang dấu hiệu của người mắc bệnh phong như tê dại, sượng sần, chết điếng... hoặc:

Người trăng ăn vận toàn trăng cả
Gò má riêng thôi lại đỏ hườm
                        (Say trăng)

Tình đã húp, sao ý vẫn còn sưng
Sao giấy lại
tháo mồ hôi ra thế?
                            (Bức thư xanh)

Thịt da tôi sượng sần tê điếng
Tôi đau vì rùng rợn đến vô biên
                                 (Hồn là ai)

Với những người đàn đã đi qua cuộc đời Hàn Mặc Tử, Trần Thanh Mại cũng rất chú ý: Tài tử với giai nhân nợ sẵn! Họ là nguyên nhân trực tiếp của những bài thơ tình của Tử, gây những đột biến trong thế giới tâm tư ông. Hoàng Cúc, mối tình đầu, là “đồng tác giả” của những bài thơ về hoa cúc, Tình quê, Âm thầm. Đặc biệt sau này là Đây thôn Vĩ Dạ. Những bài thơ tình “muôn năm sầu thảm” như Lang thang, Say chết đêm nay, Phan Thiết! Phan Thiết!, Thân tàn ma dại... thuộc về mối tình của thi sĩ với Mộng Cầm. Đây là một “mối tình lớn” của Hàn không phải chỉ bởi một cảm quan lãng mạn nào đó: “Tình chỉ đẹp khi còn dang dở”..., mà nó xảy ra vào lúc nhân cách và thi tài của nhà thơ đã trưởng thành. Nó là tiếng nói của Đau thương. Một người đàn bà khác cũng in đậm dấu lên thơ Hàn Mặc Tử là Mai Đình nữ sĩ. Nàng yêu Hàn Mặc Tử qua thơ (tập Gái quê), rồi đến với chàng trong đời thực, mặc dù lúc ấy thi sĩ đã mắc bệnh. Nữ sĩ Mai Đình đã “cho” Hàn Mặc Tử các bài Lưu luyến, Đánh lừa, Thao thức... Rồi Hàn Mặc Tử còn nhiều mối tình thực ít mộng nhiều khác như với Lê Thị Ngọc Sương (chị Bích Khê): Ta đề chữ Ngọc trên tàu chuối, sương ở cung Thiềm rỏ chẳng thôi, như với Thương Thương vốn là một cô bé 12 tuổi, cháu Trần Thanh Địch, nguồn cảm hứng cuối cùng của Cẩm Châu duyên...

Yêu, có lẽ, là một thuộc tính của thi nhân. Tim tôi lửa cháy như thiêu, Nên tôi không thể không yêu người nào (Puskin). Nguyễn Bính yêu nhiều, viết nhiều; yêu để mà viết, viết để mà yêu. Hàn Mặc Tử, tôi nghĩ, yêu ngoài cứu cánh của sáng tạo còn là cứu cánh của đời sống. Bởi vậy, tư liệu về những người đàn bà trong đời Hàn Mặc Tử của Trần Thanh Mại chẳng những giúp cho ta biết được lí do sáng tác của thi nhân mà còn phần nào giúp làm hiểu rõ thi phẩm. Chúng ta hãy đọc Trần Thanh Mại: “Chàng không quên được hình ảnh người yêu (Mộng Cầm - ĐLT), và sự đau khổ về cuộc tình duyên lỡ dở ấy lại là một nguồn cảm hứng để cho thi sĩ kéo ra nhiều điệu nhạc trầm hùng. ấy là những tiếng kêu não nuột nhất, những giọng gào thét đoạn trường nhất mà một người bị tình phụ đã thốt lên:

Trời hỡi! Nhờ ai cho khỏi đói?
Gió trăng có sẵn, làm sao ăn?
Làm sao giết được người trong mộng,
Để trả thù duyên kiếp phụ phàng?
                                         (Lang thang)

Nhưng tiếng kêu than ảo não hơn hết là khi thi sĩ đến nơi đã vì đó mà dấy lên cuộc ái ân, nơi đã chứng kiến mối tình đầu của chàng: Phan Thiết! Phan Thiết! Cái tên khêu gợi làm sao! Nó dội lên như một lời trăng trối thống thiết:

Rồi ngây dại nhờ thất tinh chỉ hướng,
Ta lang thang tìm tới chốn Lầu Trăng.
Lầu Ông Hoàng, người thiên hạ đồn vang,
Nơi đã khóc, đã yêu thương da diết...
Ơi! Trời ơi! Là Phan Thiết! Phan Thiết!
Mà tang thương còn lại mảnh sao rơi!
Ta đến nơi - Nàng ấy vắng lâu rồi!
Nghĩa là chết từ muôn trăng thế kỉ.
Trăng vàng ngọc, trăng ân tình, chưa phỉ,
Ta nhìn trăng khôn xiết ngậm ngùi trăng.
Ta vãi tung thơ lên tận sông Hằng,
Thơ phép tắc bỗng kêu rên thống thiết,
Hỡi Phan Thiết! Phan Thiết!
Mi là nơi ta chôn hận nghìn thu!
Mi là nơi ta sầu muộn ngất ngư!

                        (Phan thiết! Phan Thiết!)

Nguồn ảnh hưởng cuối cùng đến thơ Hàn Mặc Tử là tôn giáo. Trần Thanh Mại, trong công trình nghiên cứu của mình, tuy không để tôn giáo là một tiểu mục riêng (bởi điều đó với Hàn đã quá hiển nhiên chăng?), nhưng ông phân tích tác động của Kitô giáo đến Hàn Mặc Tử ở nhiều nơi, nhiều chỗ. Trí là người rất ngoan đạo, nên thơ Tử không thể không có tôn giáo: Thánh nữ đồng trinh Maria, một phần thơ trong Thượng thanh khí...

Nhân bình luận bài Xuân đầu tiên, Trần Thanh Mại viết: “Những tư tưởng cao siêu thanh khiết đã tạo ra những lời thơ cao siêu thanh khiết ấy phần nhiều là ảnh hưởng ở nguồn tư tưởng vô cùng nơi đạo Thiên Chúa. Hàn Mặc Tử bảo Bích Khê rằng: “Sáng tạo là điều kiện cần nhất, tối yếu của thơ, mà muốn tìm nguồn cảm xúc mới lạ, không chi bằng đọc sách về tôn giáo cho nhiều. Như thế văn thơ mới trở nên trọng vọng, cao quý, có một ý nghĩa thần bí”. Chính trong cơn hoạn nạn, Hàn Mặc Tử “mỗi lần chết đi sống lại, chàng đều cảm thấy bà Thánh nữ đồng trinh Maria đến cứu chàng: cho nên hơn hết cả muôn vị thần thánh, Thánh mẫu Maria là đấng cho chàng ca tụng, việc ấy chàng đã làm trong một bài thơ tuyệt diệu, mà tôi muốn làm sao cho thấu đến tòa Khâm mạng toàn cõi Đông Dương, đến cả Tòa thánh đức Giáo hoàng La Mã. Những lời thơ của Hàn Mặc Tử về loại đạo hạnh như bài này có thể đặt chàng ngay hàng với nhà đại thi hào Pháp Paul Claudel”.

Trần Thanh Mại, tóm lại, không chỉ dùng các yếu tố tiểu sử như một nguồn gốc tác phẩm, mà còn để cắt nghĩa những đặc điểm nghệ thuật  của tác phẩm. Có như vậy công trình của nhà phê bình mới là một chỉnh thể. Theo ông, bệnh tật, đàn bà và tôn giáo là nguồn cảm thụ lực ở Hàn Mặc Tử. Khác với các thi sĩ phương Đông xưa đã đành, Hàn Mặc Tử còn khác cả với các thi sĩ phương Tây nay ở chỗ ông là “một nhà thơ duy nhất sống bằng sự chiến đấu giữa tình cảm của chàng và cảnh tượng của tạo vật”. Và, “ở chàng ta thấy cảm thụ lực khi nào cũng phát triển đến tột bực. Bao nhiêu tình tứ trong người chàng đều căng thẳng ra, khi nào cũng sẵn sàng để thâu nhận những ảnh hưởng ở bên ngoài. Khi chàng nghe một điệu đàn, tinh thần chàng mở rộng toác hết các cửa, chàng đứng ra đón âm thanh như một người lỡ đường bị mưa ướt cất nón giăng tay mà so gan với cơn giông tố. Chàng để cho tiếng nhạc thấm dần trong cơ thể, qua mỗi lần xương thịt... Thế rồi người chàng thổn thức, toàn thân run rẩy đê mê, ngây ngất từng cơn. Người ta có cái cảm giác quái gở là thi sĩ đeo vào tiếng tơ rồi cùng cái nhấn của nhạc sĩ, mà quay cuồng lăn lộn...”

Sức cảm thụ đặc biệt này của Hàn Mặc Tử khiến thi sĩ “là nhà thơ đầu tiên nghe ngóng được những lời âm thầm của tạo vật, nghe được cả hơi thở của lá cành, cả va chạm của hai luồng ánh sáng”, tức là “ông đã phóng thoát ra được cái bản năng loài người, cởi lột được bao nhiêu cốt cách của loài người để ăn nhập vào vũ trụ, biến thành một hiện tượng của vũ trụ”.

Chính điều này đã mang lại cho thơ Hàn Mặc Tử một thứ âm nhạc đặc biệt một thứ ngôn ngữ đặc biệt. Theo Trần Thanh Mại thì thơ Hàn “Nhạc trong cả lối dàn chữ trên mặt giấy cũng y như những dấu hiệu trên bản đàn”. Hàn Mặc Tử là nhà thi sĩ Việt Nam có cái nghệ thuật âm nhạc tài tình nhất. Suốt trong sự nghiệp thi ca, kể cũng đã vĩ đại đối với đời ngắn ngủi của chàng, không có bài nào, đến cả không có câu nào mà không dóng theo âm điệu”. Tóm lại, Trần Thanh Mại kết luận: “Hàn Mặc Tử là một nhà thơ biệt lập ra hẳn một cõi, cõi nguy nga đồ sộ, ngát hơi hương và vang tiếng nhạc, từ trên ấy, người cho chiếu xuống cái nước con thanh tú là làng thơ Việt Nam những luồng ánh sáng đầy phép lạ, có cái tài lực biến hóa được những vật đã chạm đến”.

Phê bình tiểu sử học nói chung và của Trần Thanh Mại nói riêng thường vấp phải những khó khăn nan giải. Trước hết là phải tìm được tư liệu chính xác. Về người đương thời đã khó, người trước thời càng khó hơn, phần vì chúng ta không có thói quen lưu giữ kí ức, nhất là kí ức văn tự, phần khác huyền thoại hóa sự thực và sự thực hóa huyền thoại, sự quen thói này là không của riêng ai, đấy là chưa kể con mắt nhà nghiên cứu thường dễ chỉ nhìn thấy những gì mình cần thấy.

Nghiên cứu tiểu sử Hàn Mặc Tử, Trần Thanh Mại đưa ra những tư liệu như Tử bị đẻ non vì bà Duy uống rượu lậu, do nhà Đoan bắt để nhờ trong nhà, bị say, hoặc khi Tử bị phong thì phải sống trong tình trạng rất cô độc, hoặc Mai Đình nữ sĩ từng giúp gia đình Tử tiền... Các tình tiết này rất có ý nghĩa với Trần Thanh Mại để cắt nghĩa và sao Tử sớm có thiên tài, vì sao thơ Tử cô đơn và Mai Đình yêu tử rất mực... Nhưng một người có thẩm quyền hơn về tư liệu Hàn Mặc Tử là Nguyễn Bá Tín, em ruột nhà thơ, trong cuốn Hàn Mặc Tử anh tôi (1991) lại bác bỏ. Song người ta cũng có quyền nghi ngờ tác giả cuốn hồi kí nói trên hoặc là ông nhớ nhầm, hoặc là ông muốn bảo vệ gia phong của mình. Thế là người đọc bị rơi vào mê cung mà không tài nào tìm được sợi chỉ dẫn đường.

Tuy vậy, trong nhiều trường hợp, có tư liệu xác thực rồi, nhưng cách lí giải các tư liệu ấy lại mỗi người một khác. Như vầng trăng ám ảnh trong thơ Hàn Mặc Tử chẳng hạn. Trần Thanh Mại đi tìm một mối liên hệ nhân quả giữa trăng và bệnh cùi. Còn ông Nguyễn Bá Tín thì cho rằng thi sĩ bị ám bởi vầng trăng kì lạ ở động cát Sa Kì nơi ông đã thấy Đức Mẹ hiển hiện để trợ giúp ông, nơi ông đã được nhận Ân sủng của Người. Từ đó, Hàn Mặc Tử thay đổi hẳn, chuyển cuộc sống bên ngoài thành cuộc sống nội tâm, “Anh không còn giống Anh nữa”. Từ đó vầng trăng trở nên ám ảnh bởi một ánh sáng tâm linh huyền diệu. “Tiếc thay, ông Mại đã để mất cái Vòng xích của sợi dây chuyền vặt vãnh, như ông đã nói, nên ông không thể hiểu biết cội rễ con trăng đã ảnh hưởng đến văn thơ Hàn Mặc Tử như thế nào.”

Hoặc khi viết về các mối tình của Hàn Mặc Tử, Trần Thanh Mại cho biết bài này viết về Hoàng Cúc, bài kia viết về Mộng Cầm, còn bài kia nữa thì viết về Mai Đình, hoặc Thương Thương... Những chỉ dẫn tiểu sử học như vậy nhiều lắm chỉ soi sáng bài thơ ở cấp độ vật liệu (tức nội dung theo cách hiểu truyền thống). Trong khi đó, một bài thơ muốn đứng lại được với thời gian, tức từ bài thơ của một người thành bài thơ của muôn người, thì phải vượt thoát khỏi vật liệu để chuyển sang cấp độ nghệ thuật. Phương pháp tiểu sử học thường dừng lại ở ngưỡng cửa ngôi đền thờ thần Apollon.

Một ví dụ khác nữa, khi nghiên cứu cạnh khía tôn giáo trong thơ Hàn Mặc Tử, Trần Thanh Mại thường chỉ đơn giản coi Trí là tín đồ Kitô giáo và tính đếm đến một vài bài thơ có đề tài tôn giáo (như Thánh Mẫu Đồng Trinh), thậm chí một vài từ tôn giáo như Đâu xuất, Ngạ quỷ..., mà không tìm đến ảnh hưởng của Kitô giáo đến tư duy nghệ thuật (= Tính trữ tình + tư duy tôn giáo trên cơ sở con người cá nhân hiện đại), đến cấu trúc cảm hứng của toàn bộ sáng tạo của Hàn “Một là giai đoạn cổ điển với Lệ Thanh thi tập. Đây là sự hài hòa của Hàn Mặc Tử với chính mình và với xung quanh, tương ứng với thời thơ ấu của con người hay “thuở thiên đường của nhân loại. Hai là giai đoạn lãng mạn, tượng trưng siêu thực với Gái quê, Đau thương Xuân như ý... Hài hòa bị phá vỡ. Con người bất ổn với chính mình và hoàn cảnh: đau khổ, mơ ước, điên dại, tương ứng với thời kì trưởng thành, vấp váp, bệnh tật của con người và của các nhân loại đã “mất thiên đường”. Ba là giai đoạn tân cổ điển với một phần của Thượng thanh khí toàn bộ Cẩm châu duyên. Sự hài hòa được tái lập. Đau thương được rũ bỏ. Con người được trở lại “thiên đường của mình” (xem Mắt Thơ, tr. 213 - 233).

Cuối cùng, phương pháp tiểu sử học dựa trên luật nhân quả một cách quá đơn giản. Một quả không chỉ do một nhân, mà bao giờ cũng do một chùm nguyên nhân, biết đâu là nhân chính nhân phụ, đấy là chưa kể có những ngẫu nhiên xen vào. Hơn nữa, xét cho cùng, thì luật nhân quả chỉ có thể phần nào đúng với con người ở bình diện hữu thức, tức con người xã hội, còn với con người vô thức thì nó không có cho chỗ dùng. Tác phẩm văn học không phải chỉ có phần chủ ý của tác giả, phần mà phương pháp tiểu sử học dễ dàng khám phá theo suy luận nhân quả, mà còn có phần ngoài chủ ý của nhà văn, chính anh ta cũng không biết rằng nó có. Mà ác thay, phần này lại là phần chìm của tảng băng trôi! Và để đo đạc được nó, cần có bộ công cụ khác, phương pháp tiếp cận khác, đặc biệt là phân tâm học.

Sự thiếu khuyết của phương pháp này là tiền đề nảy sinh một phương pháp khác. Phân tâm học không chỉ làm sâu sắc thêm cho đường hướng tiếp cận tác phẩm văn học từ phía tác giả, mà còn bắc cầu sang nghiên cứu tác phẩm từ chính tác phẩm.

Huế, 2/2003
Đ.L.T
(175/09-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.

  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H

  • TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.

  • TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...

  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.