Trần Lan Vinh - một nửa nỗi niềm

09:50 09/06/2009
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO        (Đọc tập thơ ''Độc thoại trước mặt trời'' của Trần Lan Vinh- NXB Văn học Hà Nội- 2003)Trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại, sự thiếu vắng những cây bút nữ đã trở thành một vấn đề cần được chú trọng. Hầu như mỗi khi phụ nữ cầm bút, điều họ quan tâm nhất đó là sự giải bày tâm sự với ngàn ngàn nỗi niềm trắc ẩn. Nếu viết là một cách để sẻ chia tâm sự thì Trần Lan Vinh là một trường hợp như thế.

Nhà thơ Trần Lan Vinh

Tập thơ ''Độc thoại trước mặt trời'' là một cách nhìn nhận mới về lý lẽ cuộc đời, về tình yêu đôi lứa, về những thân phận làm người trên cõi nhân gian trong cách nhìn của Trần Lan Vinh. Đó là cuộc độc thoại không chỉ dành riêng cho những người thân mà tác giả còn mong muốn được lặp lại cả những niềm đau, nỗi trống trải và cả chát chua bởi cuộc đời. Thân phận của một con người trước những ngã rẽ thật sự là một câu hỏi không dễ trả lời.
Mùa thu mang số phận
Tích năm tháng cuộc đời
Trời xanh như lời giải
Mang nắng về hồi sinh

Đó là một trong những triết lý nhân sinh của Trần Lan Vinh trước vòng tuần hoàn của số phận. Cái gì sẽ hồi sinh? Đó là sự sống vĩnh hằng và những nỗi niềm trong một phút giây tâm hồn thăng hoa. Thơ Trần Lan Vinh là những tâm sự mộc mạc được viết ra với bao cung bậc đa thanh của tâm hồn. Phụ nữ làm thơ không yếu đuối đã là một thành công nhưng Trần Lan Vinh lại rất vững tin trong cách viết. Thơ chị chảy như ngọn suối ngọt ngào từ thượng nguồn, rót vào tâm hồn người đọc nỗi cảm thông và chia sẻ chân tình. Ví như:
Đơn giản vậy mà sao không hiểu
Khi tình yêu đốt cháy cô đơn
Đôi lứa gọi về hoang dại
Nhốt nhua bằng những nỗi khát khao
                    (Bao giờ nguyệt thực có đôi)

Thơ buông tâm sự là lẽ đương nhiên nhưng với Trần Lan Vinh thì ''Độc thoại trước mặt trời'' là những gì mà chị tích góp được trong cuộc sống. Sự thể nghiệm một phong cách thơ mới, độc đáo là cái tài của người viết, nhưng để đứng vững trên thi đàn với phong cách ấy là một chuyện dài. Có người sống để đời cũng chỉ có một bài thơ! Nhưng hiếm hoi thay! Ngày nay xuất hiện khá nhiều người làm thơ với bạt ngàn tập thơ được in bán khắp các hiệu sách...đó là ngàn lẻ một chuyện thơ. Tôi muốn nói tới sự khẳng khái trong phong cách thơ Trần Lan Vinh. Hẳn chị đã phải cố gắng rất nhiều khi trau chuốt ngôn từ. Xuyên suốt tập thơ của chị là tình yêu. Dẫu có nói nhiều hay ít thì đây cũng là những bài thơ tình có sự cách tân giữa thơ truyền thống và thơ hiện đại. Lối cách tân của chị được biểu hiện ở thể thơ, tứ thơ và cách sắp đặt từ ngữ. Có khá nhiều câu thơ viết rất đắt:
Thời gian vô dạ khúc
Hình như đêm dậy thì
           (Giao cảm)

Sự phá cách trong thơ Trần Lan Vinh không chỉ bó hẹp ở một mô típ cũ. Thơ chị có sự dấn thân. Sự dấn thân ấy mang lại cho chị những giây phút thăng hoa bất chợt để bờ môi run lên những cảm xúc chảy rần rật qua thái dương. Có thể tình yêu là giọt mực màu xanh mà con người ta cần phải sống để uống cạn nguồn thi hứng ấy. Người làm thơ có tâm hồn là người biết hiến dâng mình cho nghệ thuật. Nghĩa là phục vụ cái đẹp. Phục vụ con người thưởng thức cái đẹp. Nghệ thuật không bắt ép anh phải thế này, phải thế kia. Mà ngược lại anh phải điều chỉnh nghệ thuật theo cách của riêng mình. Trần Lan Vinh không phô bày vốn liếng một cách trần trụi. Chị cố gò mình trong tấm gương chỉ có khuôn mặt nông sâu của mình. Đó là một vòng tay ôm người yêu không trọn, một ánh mắt mẹ già khắc khoải đợi chờ con mình sau chiến tranh, một lá thư viết từ chiến trường, một cơn mưa hồi sinh cái chết... thơ chị không ít tìm thấy sự lãng mạn. Thơ chị viết rất thực và đời thường. Nhưng nó không sáo rỗng. Ngược lại, thơ Trần Lan Vinh mang một hơi thở dịu ngọt của người con gái miền Bắc đam mê miền Nam, đam mê những cơn mưa trắng trời Tây Nguyên trong những đoản khúc mùa. Khó nhận ra chị cố tâm dành phần lớn số bài thơ trong tập ''Độc thoại trước mặt trời'' cho Tây Nguyên. Chị có nhiều duyên nợ với mảnh đất này:
Cao nguyên...
Lửa rầm tích giấc ngủ Ba dan
Gương mặt xưa
Cát bụi khắp tượng mồ
Tiếng sỏi vỡ
Ném âm thanh gió...
            (Nhịp cồng chiêng)

Như hơi thở của người con miền cao nguyên đầy gió. Lồng ngực của người thơ bật lên những thanh âm vui tai, cuộc sống bộn bề nhưng vẫn biết ngẩng lên nhìn lại chính cảm xúc mình. Trần Lan Vinh mơ về Tây Nguyên trong một nụ hôn rạng trời chiều để đổ nắng lên mà hong khô những đợi chờ khắc khoải. Có những câu thơ như rơi xuống bởi một dấu chấm lửng hững hờ nhưng lại là sự cố ý của người ninh cất nó. Chị đã bước qua sợi dây ràng buộc với những nỗi niềm xanh rực màu nắng phương Nam, biết lột tả được sự khác nhau trong tiếng gió đại ngàn. Đôi lúc trong thơ mình, Trần Lan Vinh có chút vội vàng như sợ thời gian làm phôi phai tất cả. Chị đã dùng những dấu chấm lửng buông câu. Nét độc đáo trong phong cách thơ Trần Lan Vinh là thế. Chị không câu nệ. Chị làm thơ để tỏ nỗi lòng mình. Những bài thơ như ''Nỗi nhớ'', ''Độc thoại trước mặt trời'', ''Ám ảnh thời gian'', ''Tự bạch'', “Mạch đá trắng''... của chị đã gây được sự xúc động thực sự. Với người đọc kỹ tập thơ ''Độc thoại trước mặt trời'', hẳn cũng có chung suy nghĩ giống tôi. Tuy vẫn còn đâu đó trong ''Độc thoại trước mặt trời'' một vài câu thơ chưa được trau dồi chu chỉnh, nhưng có thể nói rằng người viết đã lột tả được cái tâm của mình trên cương vị một người mẫn cảm, thấu hiểu và không ưa câu nệ một điều gì. Trong thơ chị có nỗi ám ảnh đầy nghịch lý giữa cái hôm nay và điều đã đến hôm qua. Cũng như con người ta không thể giải quyết được vuông vức hai việc một lúc, bởi vậy thơ Trần Lan Vinh mới có sức thuyết phục bạn đọc.

Những khát khao của một người cầm bút là muốn mình thể hiện thành công suy nghĩ lên trang viết. Trần Lan Vinh là người như thế. Trong cái ồn ào của cuộc sống hôm nay, tìm thấy tâm hồn thanh tịnh đã khó. Tôi vẫn hy vọng rằng ''Độc thoại trước mặt trời'' sẽ không còn phải tự mình độc thoại, mà đó là một nửa nỗi niềm thơ gửi tới mọi người bằng tình yêu cuộc sống hôm nay.

N.T.A.Đ
(176/10-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN ĐÔNG NHẬT19 lời chứng của những ONS(1) cuối cùng, lần đầu tiên được lên tiếng qua công trình nghiên cứu hoàn hảo của bà Liêm Khê LUGUERN(2) là những nhân chứng cuối cùng trong số khoảng 27.000 người từ Đông Dương bị lùa đến nước Pháp từ tháng 10/1939 đến tháng 6/1940 để phục vụ cho guồng máy chiến tranh của thực dân Pháp trong Thế chiến thứ II.

  • LÝ HẠNHAi trong đời chẳng đã một lần làm thơ. Dù làm thơ để giải trí hay sẻ chia thì những trang thơ ấy cũng là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tâm hồn.

  • LTS: Có một chuyện ít người biết là các nhà văn Tô Hoài, Xuân Diệu, Huy Cận không nhớ ngày sinh của mình. Xuân Diệu, con nhà Nho, thì biết mình sinh giờ Thìn, ngày Thìn, tháng Thìn, năm Thìn, nhưng không biết dương lịch ngày nào. Nhà văn Tô Hoài cũng vậy, nhưng nhớ Bà Cụ cho biết sinh ông đêm rằm Trung Thu. Sau này, sang Nga, bạn người Nga hỏi, mới tra ra ngày Tây là 27-9-1920. Do đó trên các tư liệu, thường thấy ghi ngày sinh: 07-9-1920, và nhà văn cũng không buồn đính chính. Nhân kỷ niệm 90 năm ngày sinh nhà văn Tô Hoài, Sông Hương nhận được bài viết của nhà văn Đặng Tiến cùng thông tin về ngày sinh Tô Hoài nói trên. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.

  • HOÀNG DŨNGKhông phải ngẫu nhiên khi ta nói vũ trụ, thế giới thì vũ, giới là không gian, mà trụ, thế là thời gian. Ngay trong những khái niệm tưởng chỉ là không gian, cũng đã có thời gian quấn quýt ở đấy.

  • LTS: Trong các ngày 7-9/9/2010 sắp đến, Ủy ban Văn hóa Hội đồng Giám mục Việt Nam và Tòa Tổng Giám mục Giáo phận Huế sẽ tổ chức Hội thảo về thân thế và sự nghiệp của Léopold Cadière (1869-1955), Nhà nghiên cứu về Huế và Việt Nam học, chủ bút của tập san Bulletin des Amis du Vieux Hué (B.A.V.H), một trong số các tờ báo hay nhất ở Đông Dương thuở trước. Hội thảo sẽ có một số nội dung liên quan đến văn hóa Huế như Văn hóa Huế, Mỹ thuật Huế, Cổ vật Huế dưới con mắt của L. Cadière... Nhân dịp này, Tạp chí Sông Hương đăng bài viết của nhà nghiên cứu Hồ Vĩnh, chuyển tải vài nét về hoạt động văn hóa của Léopold Cadière. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.S.H

  • NGUYỄN THỊ HÒA Không cần phải bàn cãi, Từ điển tiếng Huế của Tiến sĩ, Bác sĩ Bùi Minh Đức là một tác phẩm Từ điển. Một quyển từ điển về phương ngữ địa phương Huế mà dày dặn, công phu, với 2050 trang, thể hiện công sức nghiên cứu miệt mài của một vị bác sĩ - nghiệp dư với nghề ngôn ngữ, nhưng đầy nhiệt tình và khá chuyên nghiệp trong nghiên cứu.

  • Sinh ngày 6-2-41 tại Huế. Hy sinh ngày 11-10-68 tại vùng biên giới tỉnh Tây Ninh, nguyên quán làng Bát Tràng tỉnh Bắc Ninh. Học sinh cũ Trường Quốc Học, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Ban Việt văn. Tên thật và bút hiệu công khai, chính thức: Trần Quang Long. Các bút hiệu khác: Thảo Nguyên, Chánh Sử, Trần Hoàng Phong.

  • TRẦN HỮU LỤCỞ tuổi 20, hành trình sáng tác của Nhóm Việt gắn liền với những biến cố lịch sử ở miền Nam (1965-1975). Những cây bút trẻ của Nhóm Việt đã bày tỏ một thái độ dấn thân ngày càng sâu sắc, vừa trên bình diện ý thức công dân, vừa trên bình diện ý thức nghệ sĩ.

  • PHONG LÊ(Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Nguyễn Tuân 10-7-1910 – 28-7-1987)

  • NGUYÊN QUÂN Phía đằng sau những con chữ bình dị như một chốn quê nhà chưa bị ô nhiễm cơn đau phố bụi, một ngôi làng yên bình vẫn luôn hằng hiện trong mỗi hơi thở, mỗi bước gian truân của tác giả là sự chân thật đến nao lòng.

  • LÝ HOÀI THU Những câu thơ đầu tay của Hữu Thỉnh cất lên từ những cánh rừng Trường Sơn được anh gọi là “Tiếng hát trong rừng”. Anh viết về đồng đội, về cơn sốt rét rừng, về những trận bom và vết hằn xe xích, về mây, suối, dốc, thác Trường Sơn.

  • THÁI DOÃN HIỂU…Khi sự vong ân bội nghĩa của người đời đang diễn ra ở khắp đó đây thì Hoàng Trần Cương là người sống bằng ân sâu nghĩa cả. Với anh, ân nghĩa là một gánh nặng phải gánh. Anh nói về ân nghĩa như là một thứ trí nhớ của lương tri, một món nợ không bao giờ trả xong…

  • VŨ DUY THÔNG        (Thơ - Nghiêm Huyền Vũ, Nxb Trẻ 2000)Khác với bên ngoài, Nghiêm Huyền Vũ trong thơ là người trầm tư, cái trầm tư nhuốm vị triết học.Vây bọc quanh anh là không gian, thứ không gian cô liêu.

  • TRẦN QUỐC THỰCÍt người chịu đi tìm tiếng nói riêng khi đọc một tập thơ, một chặng thơ của một người. Qua từng chặng thơ, tiếng nói riêng ấy sẽ trở thành một cách thơ riêng biệt. Và đó là điều đáng mừng cho đội ngũ sáng tác.

  • NGUYỄN THANH TÚ          (Phác thảo chân dung nhà văn Nguyễn Bảo)

  • LGT: Cuốn tiển thuyết “Biết đâu địa ngục thiên đường” của nhà văn Nguyễn Khắc Phê vừa xuất bản được xem là tác phẩm thành công nhất của ông, cũng là cuốn tiểu thuyết viết kỹ lưỡng nhất, lâu nhất. Cuốn tiểu thuyết này hiện nay nằm trong danh sách những cuốn vào chung khảo cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam. Sông Hương xin giới thiệu những ý kiến nhận định rất chân thành của Giáo sư Trần Đình Sử, nhà văn Ma Văn Kháng và nhà nghiên cứu phê bình Từ Sơn.

  • FAN ANHCon người khác con vật không chỉ ở đặc điểm con người có một bản ngã, một cái tôi luôn biến động, mấu chốt nằm ở chỗ, con người có thể có nhiều bản ngã khác nhau, tồn tại một cách âm thầm trong những thế giới mà nhiều khi ngay bản thân mỗi cá nhân chúng ta cũng không thể am tường hết.

  • VĂN CẦM HẢI(Nhân đọc “Giọng nói mơ hồ” - Nguyễn Hữu Hồng Minh. Nxb trẻ 1999)

  • ĐỖ NGỌC YÊNHồ Quý Ly là một nhân vật lịch sử có thật. Hơn nữa ông đã từng làm đến chức quan Thái sư dưới thời nhà Trần khoảng từ năm 1370 - 1400, và lập nên nhà Hồ từ năm 1400 - 1407.

  • Phỏng vấn nhà nghiên cứu Nguyễn Việt - chuyên viên Hiệp hội CLB UNESCO Việt Nam – nhân cuộc triển lãm thư pháp thơ “Nhật ký trong tù” của Bác Hồ tại Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên Huế 8-2000