Trăm năm giờ mới thấy đây...

16:50 20/07/2009
NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.

Khu lăng mộ Công chúa Mai Am (Ảnh: Nguyễn Đắc Xuân - netcodo.com.vn)

Mai Am (1826-1904) tức Nguyễn Phúc Trinh Thận, tên tự là Thúc Khanh, em cùng mẹ với Miên Thẩm. Năm 24 tuổi, bà kết hôn với ông Thân Trọng Di ở làng Nguyệt Biều (ngoại thành Huế). “Thân Trọng” cũng là dòng họ nổi tiếng ở Huế, em ông Di thi đỗ tiến sĩ, nhưng ông Di có lẽ không ham chạy theo con đường khoa bảng, thích vui thú điền viên, nên trong “Lô giang tiểu sử”, ông Nguyễn Văn Mại có nhận xét rằng ông “không ưa từ chương, thật thà như một ông lão nhà quê”.  Với đức ông chồng như thế, hẳn là nữ sĩ công chúa ưa ngâm vịnh thưởng ngoạn gió trăng không thể thỏa mãn. Nhà thơ Lương An, theo lời kể của cụ Thân Trọng Hy, cũng cho biết “hai người ăn ở với nhau tuy bề ngoài vẫn ấm êm, nhưng bên trong thì không được “sắt cầm hòa hợp”. Liệu có phải đó cũng là lý do 13 năm sau khi lập gia đình, bà mới sinh được một đứa con trai? Đã thế, bà lại không được hưởng niềm vui làm mẹ lâu bền. Bà đã gửi gắm biết bao hy vọng vào đứa con sớm tỏ dấu hiệu thông minh; cậu bé mới 3-4 tuổi đã được bà dạy cho đọc thơ Đường, nhưng số phận trớ trêu, chưa đầy 5 tuổi, cậu bé bị ốm nặng và bà đã phải vĩnh biệt đứa con yêu quý. Sau đó, bà không sinh thêm đứa con nào nữa; nỗi đau quá lớn lao chẳng có gì bù đắp được, nhưng với người nghệ sĩ, nỗi đau trần thế lại sinh thành những tác phẩm. Với Mai Am đó là 15 bài thơ khóc con (“Khốc nhi thi - thập ngũ thủ”) từng khiến bao thế hệ độc giả rơi lệ:

“Hoạch sa vãng vãng hiệu nhân thư / Thốc quản tùy thân nhật bất hư / Khổ ức lâm chung vân hiếu học / Chư thiên hà xứ mịch đồng sơ.” (Lương An dịch thơ: “Vạch cát học theo người lớn viết / Bút cùn tay chẳng buổi nào lơi / Lâm chung còn nói con thèm học / Con trẻ, tìm đâu giữa các trời?”)

Chùm thơ viết năm 1868, khi Mai Am 42 tuổi. Đó cũng là lúc nghệ thuật thơ của bà được các danh sĩ đương thời như Miên Thẩm, Trương Đăng Quế, Phan Thanh Giản, Nguyễn Hàm Ninh hết lời ca tụng nhân tập thơ “Diệu Liên thi tập” của bà được khắc in lần đầu (năm 1867). “...Đọc thơ của Mai Am, thấy dáng điệu tươi như mùa xuân, phép tắc thì hoa lệ, nghiễm nhiên lên đứng ngang hàng với các ông lớn tác gia nổi danh đời Đường, Tống...” (Lời bạt của Nguyễn Hàm Ninh) Xin mời bạn đọc thưởng thức bài “Ngẫu ti” (“Tơ ngó sen” qua bản dịch của Lê Nguyễn Lưu) mà Nguyễn Hàm Ninh xem là tác phẩm “đáng bậc thầy” đối với mình:

Ai ơi chớ bẻ ngó sen hương / Vô số tơ mành cứ vấn vương / Mềm mại khác chi the mới dệt / Mảnh mai như thể kén vừa giương / Dăng dăng mối kết trong tâm khảm / Cuộn cuộn tình lan cách dặm trường / Ví thử xe tơ thành sợi chỉ / Xin người thêu lấy cặp uyên ương.

Bài thơ Mai Am viết năm 1855, lúc bà chưa đầy ba mươi tuổi. Qua mấy dòng thơ, chúng ta cũng hình dung được phần nào tâm trạng khát khao tình cảm của nữ sĩ trong tình cảnh không mấy hạnh phúc của bà.

Nỗi bất hạnh lớn nhất đến với bà cùng với nỗi đau của cả dân tộc trước họa ngoại xâm. Sau khi giặc Pháp chiếm kinh đô Huế (năm 1885), nghe tin vua Hàm Nghi rời kinh đô, ông Thân Trọng Di cũng tìm đường ra Quảng Trị. Ông không theo kịp đoàn xa giá, rồi mất tích giữa núi rừng, mãi về sau vẫn không tìm được hài cốt. Một lần nữa, nỗi đau vò xé gan ruột đã hóa thành mười lăm bài thơ khóc chồng và bà đã cho khắc trên bia mộ – một ngôi mộ trống không ở làng quê Nguyệt Biều!

Là một công chúa và với lễ giáo phong kiến khắt khe, Mai Am ít có dịp sống gần gũi với cuộc sống lao động quần chúng và tham dự vào thời cuộc, nên phần lớn thơ của bà là thơ ngâm vịnh phong cảnh, xướng họa với người thân cũng là điều dễ hiểu. Tuy vậy, khi có dịp, bà cũng thể hiện công việc vất vả của người lao động một cách chân thực và trân trọng, như trong bài “Nông phu từ” (“Lời nhà nông”): “...Lúa cứa sầy da, lưng nóng bỏng / Mồ hôi như mưa giọt nhỏ ròng...”; và trước họa ngoại xâm, bà đã tỏ rõ tinh thần yêu nước; cảm kích trước bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu, bà đã viết: “...Dân chúng Cần vương vì ghét địch / Nhà nho lâm trận tiếc không tài / Giặc đầy chiến lũy từng mây phủ / Xương chất sa trường bóng nguyệt soi...” (Bản dịch của Lê Thước).

Đánh giá tổng quát về sự nghiệp thơ của Mai Am, nhà thơ Lương An viết: “... thơ Mai Am trước hết là thơ một phụ nữ khuê các, hơn thế, một bà chúa sống giữa một giai đoạn lịch sử mà xã hội đang trải qua những biến động rất lớn, đất nước đang từ tự chủ trở thành lệ thuộc, là thơ của một con người giàu tình cảm, dễ xúc động, lại gặp nhiều bất nghi trong cuộc sống riêng tư. Với thơ của một người như thế, vấn đề lớn nhất không phải là chuyện đề tài, mà là bao nhiêu điều bắt ta phải suy nghĩ, tìm hiểu, thông cảm, thậm chí cả trằn trọc và tin yêu nữa”. 

Dù sao giá trị chủ yếu thơ Mai Am vẫn là nghệ thuật sử dụng ngôn từ và tình cảm tinh tế, nhân hậu của tác giả trước thiên nhiên, trước cuộc đời. Tác phẩm của bà đều viết bằng chữ Hán, với khá nhiều điển tích, nên thật khó chuyển tải những điều đó đến đông đảo bạn đọc hôm nay - các bản dịch, nhất là dịch thơ, công phu mấy cũng không thể diễn tả hết được tài nghệ và vẻ đẹp của nguyên bản. Vì thế, chỉ xin trích thêm vài câu có thể cảm nhận được vẻ đẹp tinh tế thơ Mai Am một cách dễ dàng:

“Gió đông chẳng biết cầm xuân lại / Còn thổi hoa bay tiễn khách đi...” (Bài “Mộ xuân tống biệt”)

Chúng ta đã biết bà lấy chồng làng Nguyệt Biều, đối diện bên kia sông Hương là chùa Thiên Mụ. Ca dao đã có câu: “Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Cương”. Cũng cảnh ấy, nhưng trong bài “Tiếng chuông” của Mai Am chất chứa bao nỗi niềm:

“Hồi chuông cách quãng lọt buồng sâu / Đèn rọi song mờ nghĩ những đâu / Ban xóm giục ngầm gà gáy sáng / Qua lầu theo ngọn lá tàn thu / Gối đơn tỉnh mộng lòng thương nhớ / Chuyện cũ mười năm dạ xốn xao / Tràng hạt lần xong trăm lẻ tám / Cảnh này ai trút được phiền đau?”

Cũng về tiếng chuông, ở một bài khác, bà viết: “Che cửa, tiếng chuông rơi với lá...”  Một tâm hồn thật tinh tế, đa cảm mới viết được câu thơ như thế...    

Nữ sĩ Mai Am qua đời đến nay vừa tròn 100 năm. Trong một thế kỷ qua, do khó khăn về tài liệu và dịch thuật, cuộc đời và thi phẩm của bà chỉ mới được giới thiệu một cách lẻ tẻ. Cho đến hôm nay, cùng với thơ của người em gái Huệ Phố (Quý Khanh), nhà thơ Lương An, tuy tuổi cao sức yếu, đã bỏ nhiều công sức tuyển dịch gần sáu chục bài thơ (trong số mấy trăm bài ở “Diệu Liên thi tập”) của nhà thơ Mai Am (“Thơ Mai Am-Huệ Phố”, Nxb Thuận Hóa, 2004) giúp chúng ta hình dung khá đầy đủ về cuộc đời và nghệ thuật của “cây bút nữ sắc sảo nhất, tài hoa nhất của xứ Huế trong nửa sau thế kỷ 19”.*

Trường An- Huế , đầu Xuân 2004
N.K.P
(181/03-04)

-----------------
* Tài liệu trong bài dẫn từ sách “Thơ Mai Am Huệ Phố” NXB Thuận Hoá 2004.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • KHẾ IÊMGửi các nhà thơ Đỗ Quyên, Inrasara và Lê Vũ

  • TRẦN HUYỀN SÂMTrong một nghiệp bút, hình như có tính quyết định bởi những cú sốc. Hoặc là cú sốc ái tình, hoặc là cú sốc chính trị, hoặc là sự thăng hoa của một miền ký ức nào đó ở tuổi hoa niên. Tiểu thuyết gia, chính trị gia Peru: Mario Vargas Llosa - người vừa được vinh danh giải Nobel văn học, dường như đã “chịu” cả ba cú sốc nói trên.

  • LTS: Thơ Haiku Nhật Bản thế kỷ XVII không dùng lối nói bóng gió, không tìm kiếm những nét tương đồng giữa “thế giới bên trong” của con người và hiện thực “bên ngoài” để tạo ra cầu nối giữa con người với thế giới, con người với con người. Haiku dùng những biểu tượng hàm súc ứ đầy thông tin và cảm giác để khắc họa con người trong nhất thể với thế giới. Đường thi cũng rất ít xuất hiện trường hợp dùng lối nói ẩn dụ, mà bộc lộ trực tiếp ý tưởng và ưa thích liên tưởng mà không cần viện tới cái tương đồng.

  • LGT: 1. Dịch giả, nhà phê bình Trần Thiện Đạo( sinh 1933) định cư ở Pháp từ thập niên 50. Sống hơn nửa thế kỷ ở Paris, Trần Thiện Đạo đã thâm ngấm sâu sắc ngôn ngữ và văn minh Pháp. Tuy nhiên, cảm thức cội nguồn vẫn luôn tiềm tàng trong tâm thức của một người trí thức sống lưu vong. Miệt mài, đam mê đến khổ hạnh, ông đã tạo lập một vị trí đặc biệt trong dòng đối lưu văn chương Pháp -Việt.

  • NGUYỄN THANH TÂM1. Thơ vốn dĩ là sản phẩm của đời sống tinh thần, là sự biểu hiện một cách tinh tế những diễn biến nội tâm của chủ thể sáng tạo. Ngôn từ vẫn luôn là chất liệu với nội lực biểu hiện vô song của nó. Các nhà thơ dù ở thời đại nào, trong môi trường văn hóa, lãnh thổ nào cũng không thể thoát ra khỏi sự ràng buộc tự nhiên của cái biểu đạt ấy để hướng tới cái được biểu đạt ẩn sâu sau những “lựa chọn” và “kết hợp” có giá trị mĩ học.

  • MAI VĂN HOANKỷ niệm 70 năm ngày mất Hàn Mặc Tử (11/11/1940 - 11/11/2010)Hàn Mặc Tử tên thật Nguyễn Trọng Trí, sinh năm 1912, mất năm 1940. Quê Lệ Mỹ, Đồng Hới, Quảng Bình. Tổ tiên họ Phạm, ông cố Phạm Nhương, ông nội Phạm Bồi, vì liên can quốc sự trốn vào Thừa Thiên đổi ra họ Nguyễn. Cha là Nguyễn Văn Toản, mẹ là Nguyễn Thị Duy.

  • PHONG LÊHôm nay theo tôi quan niệm là một thời gian khá dài, nếu tính từ khởi động của công cuộc Đổi mới với Đại hội Đảng lần thứ VI - 1986.

  • THÁI DOÃN HIỂUVì sao Nguyễn Du viết Truyện Kiều? Mục đích viết Kiều để làm gì?... là những câu hỏi bức bối trong suốt thời gian tôi còn làm ông giáo đứng trên bục giảng. Tôi đã viết một chuyên luận dài 200 trang để trả lời câu tự vấn trên. Dưới đây là bản tóm tắt ghi bằng thơ để bạn đọc dễ tiếp thu và ghi nhớ.

  • L.T.S: Tối 27-3-1984, tại Huế, giáo sư Xi-đô-rốp, ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Liên Xô, hiệu phó học viện Gooc-ki và là nhà lý luận Văn học nổi tiếng của Liên Xô, đã đến tham dự cuộc tọa đàm về các vấn đề văn học với các hội viên Hội Nhà văn Việt Nam ở Bình Trị Thiên. Sau đây là những ý kiến của giáo sư về các vấn đề đặt ra trong cuộc tọa đàm, qua lời phiên dịch của nhà thơ Bằng Việt, do Hoàng Phủ Ngọc Tường ghi lại.

  • MAI VĂN HOANTheo thần thoại Hy Lạp, vị thần đầu tiên xuất hiện trên thế gian là thần Ái tình. Thần Ái tình là một đứa bé có cánh với cây cung bên người, ngọn đuốc cầm tay mang tình yêu đến với những trái tim. Tình yêu - nguồn đề tài không bao giờ cạn của văn học nói chung và thơ ca nói riêng.

  • LƯƠNG ANNhớ có một bài thơ “nói láo” nào đó, khi kết thúc đã nói đến một điều không thể được là làm cho “mấy nàng công chúa phải say mê”. Bài thơ nói đúng với những chàng trai bất tài. Còn trường hợp có tài thì sự việc sẽ khác. Một câu chuyện tình trong đời của nhà thơ Nguyễn Hàm Ninh đã chứng minh điều đó.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ1. Văn học - hiện thực là một trong bốn quan hệ cơ bản của văn học nghệ thuật

  • PHAN TUẤN ANH “Trên thực tế, mỗi người chỉ viết một cuốn sách. Chỗ khó là làm sao biết được cuốn sách nào đang được một người viết ra. Trong trường hợp của tôi, điều người ta nhắc đến thường xuyên nhiều hơn cả là cuốn sách về làng Macondo…” (G.G.Marquez).

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGNếu chiều mưa một cây đàn ghi-ta có ai cầm lên, ngân vài nốt nhạc, thời gian sẽ chậm lại, mọi người ngồi gần vào nhau, im lặng chờ nghe.

  • VÕ XUÂN TRANGỞ Bình Trị Thiên có hai câu hò cả nước đều biết, nhưng lâu nay được ghi theo nhiều cách khác nhau.

  • LÂM THỊ MỸ DẠQuá trình cảm thụ thế giới:Những tứ thơ tức là những yếu tố nội dung cấu trúc nên một tác phẩm thi ca. Nói rộng tức là những yếu tố làm nên thế giới thi ca của một nhà thơ.

  • PHẠM PHÚ PHONG(Nhân đọc Hai mươi nhà văn, nhà văn hoá Việt thế kỷ XX)

  • Cuộc đấu tranh chống tiêu cực đang là một mặt trận nóng bỏng trong cuộc sống hiện nay và việc viết về “đề tài chống tiêu cực” đang là vấn đề thời sự được không ít người viết, bạn đọc cũng như các cơ quan chỉ đạo văn nghệ quan tâm.

  • ĐỖ QUYÊNVài năm nay, người Việt ở khắp nơi, trong và cả ngoài văn giới, tranh luận rất nhiều về trào lưu Hậu hiện đại (Postmodernism) như một nan đề. Dù đồng ý hay không đồng ý với nó, ai cũng mong muốn cần đổi mới trong xu hướng văn chương của Việt Nam và mang tinh thần thế giới.

  • (Note sur les cendres des Tây Sơn dans la prison du Khám Đường, par Nguyễn Đình Hòe, B.A.V.H. 1914 p. 145-146)