Tôn Nữ Thu Hồng - nữ thi sĩ Huế duy nhất có tên trong 'Thi nhân Việt Nam'

15:09 24/10/2011
KHÚC CẦM Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh - Hoài Chân xuất bản năm 1942 là cuốn sách khám phá và đánh giá đầu tiên đối với phong trào Thơ Mới.

Nhà thơ Thu Hồng - Ảnh: sachxua.net

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Việc lựa chọn tác giả và tác phẩm đương thời là một việc hết sức khó khăn, thế nhưng với cảm thụ sâu sắc, Hoài Thanh và Hoài Chân đã lựa chọn được những tác phẩm thơ hay nhất trong vườn hoa Thơ Mới để bày soạn cho người yêu thơ thưởng thức. Sự chọn lựa ấy được xác nhận là rất tinh tế, các tác phẩm được chọn ngay lập tức thuyết phục được công chúng bạn đọc cả nước lúc bấy giờ và nhiều thế hệ yêu thơ Việt Nam sau này nữa.

Trong số các nhà thơ được tuyển chọn vào tập Thi nhân Việt Nam, thi sĩ gốc Huế có bốn người được chọn: Phan Văn Dật (sinh 1909) ở làng Phú Xuân - Hương Trà, với ba bài thơ: Tiễn đưa, Bi xuân nương, Nàng con gái họ Dương; Mộng Huyền (sinh 1919) ở Huế với tác phẩm Vườn hoang; Nguyễn Đình Thư (sinh 1917) ở Phước Yên, Quảng Điền với các bài thơ: Đến chiều, Sang ngang, Tống biệt, Vương tình, Thiệt thà; Tôn Nữ Thu Hồng với ba bài: Tơ lòng với đẹp, Êm đềm, Mảnh hồn thơ.

Tôn Nữ Thu Hồng sinh ngày 19.7.1922, quê làng Thần Phù, huyện Hương Thủy, Thừa Thiên Huế. Bà thuộc dòng dõi Hoàng tộc nhà Nguyễn, trước học ở Tourane, sau vào học tại trường Đồng Khánh (Huế). Cuộc đời của nữ thi sĩ đúng là nghiệp dĩ chân mệnh tài hoa. Năm 18 tuổi (1940), bà cho xuất bản tập Sóng thơ. Tập thơ in đẹp (chưa rõ tên nhà xuất bản), có tựa của Đạm Phương nữ sĩ, và tranh vẽ bìa của nữ họa sĩ Mộng Hoa. Năm 1941, bà và thơ của bà được Hoài Thanh -Hoài Chân giới thiệu trong Thi nhân Việt Nam. Năm 1968, bà lại được Nguyễn Tấn Long - Nguyễn Hữu Trọng giới thiệu trong bộ sách Việt Nam thi nhân tiền chiến (quyển trung), xuất bản tại Sài Gòn. Cuốn sách cũng cho biết la nữ sĩ Tôn Nữ Thu Hồng đã chết trong một trường hợp bi đát vào năm 1948, khi mới 26 tuổi (theo Wikipedia).

Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh và Hoài Chân đã viết về nữ thi sĩ Tôn Nữ Thu Hồng như sau:

Người ta vẫn nói giọng Huế phải nghe từ miệng con gái Huế mới có duyên. Lần thứ nhất trên thi đàn ta được nghe giọng một người con gái Huế, mà lại là người trong Hoàng tộc: Tôn Nữ Thu Hồng.

Giá Thu Hồng chịu làm những câu trơn tru mà trống rỗng, chắc chẳng khó gì. Ai mà không làm được những câu trơn tru, trống rỗng? Nhưng người có cái ý muốn rất đáng quý là diễn đúng hình dáng riêng của hồn mình. Có phải vì thế mà giọng nói của người có vẻ ngọng ngịu rất ít có trong thơ ta. Ngọng ngịu khi ôn lại quãng đời thơ ấu đã đành; ngọng ngịu cả khi ca ngợi cảnh trời:


Cảnh đẹp cứ dàn thêm bước bước
Lời ngợi khen mỗi phút lại thay thay


Và nữa:

Ở xứ này, nói đến những thiếu nữ làm thơ người ta thường mỉm cười. Hình như thơ là một cái gì to chuyện lắm. Thu Hồng đã tránh được cái mỉm cười mỉa mai ấy vì người rất bình dị, rất hồn nhiên, không lúc nào ra vẻ muốn làm to chuyện”.

Con gái Huế trước thời kỳ Thơ Mới làm thơ viết văn không nhiều lắm, chỉ có 5 người còn được sử sách nhắc đến. Triều Nguyễn khởi thủy cho văn học nữ có Bà Huyện Thanh Quan với những câu thơ hoài cảm: “Ngàn mai lác đác chim về tổ/ Dặm liễu bâng khuâng khách nhớ nhà” (Chiều hôm nhớ nhà). Bà từng sống ở Phú Xuân 8 năm, dạy các hoàng nữ trong cung, khi trở ra Bắc công chúa Mai Am có tiễn đưa bằng bài thơ “Tống Lưu Ái Lan thất Nguyễn Thị quy Hà Nội”. Tiếp đó có bà Nguyễn Nhược Thị Bích (1830 - 1909), từng dạy hoàng tử Ưng Thị sau là vua Đồng Khánh, và hoàng tử Ưng Đăng sau là vua Kiến Phúc. Sau vụ Thất thủ kinh đô, bà làm bài thơ lục bát nhan đề “Loan dư hạn thục ca” (Xe loan vào đất Thục) thuật lại chuyện vua Hàm Nghi chạy ra Tân Sở. Các nữ danh sĩ khác phải kể đến Nguyễn Phúc Vĩnh Trinh (sinh 1824), tự là Trọng Khanh, hiệu là Nguyệt Đình, hoàng nữ thứ mười tám của vua Minh Mạng. Khi chồng là phò mã Phạm Đăng Thuật còn sống, hai vợ chồng cùng nhau xướng họa thành tập thơ. Bà để lại một tập thơ là “Nguyệt đình thi thảo”, rất tiếc là chưa tìm thấy. Nguyễn Phúc Trinh Thận, tự là Thúc Khanh, hiệu là Mai Am (sinh 1826), có sáng tác tập “Diệu Liên thi tập”. Nguyễn Phúc Tĩnh Hòa (1830), tự là Quý Khanh, hiệu là Huệ Phố, để lại tập Huệ Phố Thi tập.

Đặc biệt về sau, có Nữ sử Đạm Phương. Là một nữ học giả suốt đời đấu tranh cho sự đổi mới giáo dục con người, giải phóng phụ nữ, chấn hưng đất nước.

Đến thời kỳ Thu Hồng làm thơ, là thời buổi cái mới thôi thúc: “Tình chúng ta đã đổi mới, thơ chúng ta cũng phải đổi mới vậy. Cái khát vọng cởi trói cho thi ca chỉ là cái khát vọng nói rõ những điều kín nhiệm - u uất, cái khát vọng được thành thật. Một nỗi khát vọng khẩn thiết đến đau đớn”... (Thi nhân Việt Nam)

Thời buổi ấy sự bảo thủ đang còn đè nặng, đến mức có người còn đòi chém cả Lưu Trọng Lư vì dám đổi mới thơ (!). Con gái Huế bấy giờ làm thơ cũng chưa nhiều lắm, vậy mà Thu Hồng làm thơ mới vượt lên tất cả, để đi vào Thi nhân Việt Nam thì thật đáng nể vì. Thậm chí, Thi nhân Việt Nam còn đánh giá Tôn Nữ Thu Hồng khá cao, xếp ngang hàng với nhiều anh tài khác: “Chung quanh đôi bạn Xuân Diệu - Huy Cận có...: Tế Hanh, Huyền Kiêu, Đinh Hùng, Phan Khắc Khoan, Thu Hồng, Nguyễn Đình Thư... Đôi nhà thơ như Lan Sơn, Thanh Tịnh, lúc nãy đã thấy một bên Thế Lữ, bây giờ lại kéo nhau về đây”.

Hơn nửa thế kỷ sau, các thế hệ học trò Huế còn thi nhau chép trong sổ tay những tư tưởng triết lý không bóng bẩy, nhưng rất dễ đi vào lòng người bởi cái chân chất hợp với tuổi học trò:

Hãy là hoa, xin hãy khoan là trái
Hoa nồng hương mà trái lắm khi chua


Chép vậy đó, rồi không biết là của ai, có kẻ nói của Xuân Diệu, có kẻ nói của Chế Lan Viên. Vậy mà thơ đó là của Tôn Nữ Thu Hồng.

Đó là dấu hiệu người đời sau ít biết đến nữ thi sĩ xứ Huế duy nhất có tên trong Thi nhân Việt Nam. Bởi vì sau đó, các công trình nghiên cứu rất ít nhắc đến tên hoặc có nhắc thì cũng không nói cho đầy đủ. Chỉ duy Việt Nam Thi nhân tiền chiến của Nguyễn Tấn Long - Nguyễn Hữu Trọng là còn lưu ý. Ngay cả trong Từ điển văn học do NXB Khoa học Xã hội - Hà Nội - xuất bản 1983, cũng không có tên của nữ nhà thơ tiên phong xứ Huế ngày ấy... Mãi đến năm 1994, NXB Lao động có ấn hành cuốn “Vầng trăng đêm ấy”, là tập thơ xướng họa giữa nữ sĩ Thu Hồng và thi sĩ Nguyễn Viết Thâm. Phần đầu có đoạn thi sĩ Viết Thâm kể về mối tình của ông với nữ sĩ Thu Hồng, có thủ bút của cả hai người.

Để nhớ lại thi ca của một người, thi ca của một thời, xin giới thiệu lại những bài thơ đã được Thi nhân Việt Nam Việt Nam thi nhân tiền chiến tuyển chọn. Điều dễ nhận thấy là sau những vần thơ trong sáng trong tập Sóng thơ, bài “Lịch” (in trong Việt Nam Thi nhân Tiền chiến cho thấy nữ sĩ đã bắt đầu nhận thức được nỗi buồn hữu hạn của phận người, dẫu lúc ấy bà chỉ mới chỉ ngoài 20 tuổi.



Êm đềm


Hồi tưởng nhiều mai, dưới ánh dương,
Em vừa tỉnh giấc, dậy bên giường,
Mẹ em đôi mắt đầy âu yếm
Vây bọc chim khua, rộn giấc hường.

Vạn buổi êm trời, dịu mát hương,
Chưa bằng đôi mắt chứa yêu đương!
Mẹ hiền tựa cửa khi chờ ngóng,
Em thấy lòng vui lướt dặm đường.

Cũng có nhiều đêm gió rít vang,
Mẹ em ốm nặng thức trong màn,
Em ngồi mơ sách người xưa ước,
Nếu có thì em cũng ước tràn.

Nếu có thì em: ước mẹ lành,
Cha cho nhiều bánh với nhiều tranh,
Cây me cao quá bên vườn bắc,
Nghiêng xuống cho em bẻ một cành.

Có lắm hoàng hôn, mãi cợt đùa,
Quên rằng bãi bể sóng chiều khua,
Và nhà cơm đợi, chờ em vắng,
Em sắp hàng năm để chạy đua.

Rồi đến trăng nhô mới vội về,
Cha cười, song cũng chỉ roi đe:
“Mai mà chơi chậm thì con liệu,
Sắm sửa vài mo để đón che”.

Ai có như em, một ấu thời?
Đi tìm bướm bắt để nuôi chơi,
Búp bê đem tắm hơ cho ấm,
Lửa bén vèo! thôi cháy mất rồi.

Rõ là em cũng quá lôi thôi,
Ai chả còn ghi quãng ầu thời,
Đằng đẵng đường trường cơn gió bụi
Duy còn ôn lại những ngày vui
                       
(Rút từ Sóng thơ)


Mảnh Hồn Thơ


Em muốn thơ em hoàn toàn vui,
Đừng sầu lá rụng, khóc hoa rơi,
Đừng than thở, tiếc ngày qua chóng.
Ước nguyện đành không đạt nguyện rồi!

Ô hay! đâu thoát khỏi triền miên,
Hồn lặng trong mê, ý dậy phiền.
Đời ít khi vui, hoài cảm xúc,
Thương sen lẫn lộn sống bên bùn!
..........................
Cho nên nhiều lúc, muốn thơ cười,
Chợt nghĩ quanh mà bút bỗng rơi!
Ôm mảnh hồn thơ, đường oán hận,
Em dùng thổn thức, dãi nên lời.
                       
(Rút từ Sóng thơ)


Lịch


Lịch trên tường mỗi ban mai tay xé,
Xé dần, đem vứt xuống giỏ mây đan.
Phải đây là xác chết của thời gian?
Mỗi tờ xuống, một ngày đi biệt tích?
Tay ngần ngại cũng thôi đành vô ích,
Vì hôm nay không dính dáng ngày mai.
Lúc bình minh trong sương sớm chưa phai
Là giấy biết thân mình không thể gắng
Người đâu khác dẫu trăm ngàn cay đắng,
Vói tay dài mong níu lại ngày đi
Ý điên rồ người đeo đuổi làm chi,
Tờ mỏng quá, khác đâu ngày qua chóng!
Tình lưu luyến khiến âu sầu phấp phỏng
Lịch cùng ta nào có khác chi nhau?
Lịch hàng năm đem thay đổi một màu
Người một tuổi chớ mơ mòng lui lại
Lịch còn mãi, đời đâu dài được mãi?
Tờ rã tan ra tro bụi chôn vùi...
...
(Theo Việt Nam thi nhân tiền chiến)

(272/10-11)





Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN ĐÌNH SỬTôi có duyên làm quen với Trần Hoàng Phố đã hai chục năm rồi, kể từ ngày vào dạy chuyên đề thi pháp học ở khoa Văn Đại học Sư phạm Huế đầu những năm 80. Hồi ấy anh đã là giảng viên nhưng theo dõi chuyên đề của tổi rất đều, tôi biết anh rất quan tâm cái mới. Sau đó tôi lại tham gia Hội đồng chấm luận án tiến sĩ của anh, được biết thêm anh là một người đọc rộng, uyên bác.

  • TRẦN THUỲ MAI(Đọc tập thơ "Quê quán tôi xưa" của Trần Hoàng Phố, NXB Thuận Hoá - Huế 2002)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊNhà văn Nguyễn Quang Hà, trong lời bạt cuốn tiểu thuyết mượn câu thơ nổi tiếng của nhà thơ Cao Bá Quát (“Trường giang như kiếm lập thiên thanh”) làm nhan đề, đã xem đây là “những kỷ niệm đầy yêu thương suốt dọc đường chiến tranh” của mình.

  • VỌNG THẢO(Về tập sách "Vì người mà tôi làm như vậy" của Hà Khánh Linh – NXB Hội Nhà văn – 2002)

  • NGUYỄN THỊ GIANG CHIF.Kafka là một trong những nhà văn lớn nhất của thế kỷ XX, một hiện tượng văn học rất phức tạp, có ảnh hưởng rộng lớn đối với tiến trình phát triển của văn học thế giới, đặc biệt là ở phương Tây.

  • YÊN CHÂU(Đọc “Gặp lại tuổi hai mươi”(*) của Kiều Anh Hương)Ngay bài thơ in đầu tập “Vùng trời thánh thiện” có hai câu đã làm tôi giật mình, làm tôi choáng ngợp:                “Những lo toan năm tháng đời thường                Như tấm áo chật choàng lên khát vọng”

  • VỌNG THẢO... " Đôi trai gái đến nhót từ trong thau ra mỗi người một con cá ngậm ngang mồm, trút bỏ áo quần, trần truồng dắt tay nhau xuống nước. Hai con cá ấy là lễ vật dâng Thần Đầm. Chúng sẽ chứng kiến cái giờ phút linh thiêng hòa nhập làm một của đôi vợ chồng mới cưới, ngay trong lòng nước... Cuộc giao phối xong, đôi trai gái mới được há miệng. Hai chú cá liền bơi đi...".

  • VŨ NGỌC KHÁNH.(Đọc sách Phan Bội Châu- Toàn tập do Chương Thâu sưu tầm, biên soạn. Nhà xuất bản Thuận Hoá và Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây- 2000)

  • VỌNG THẢO(Đọc “Quỷ trong trăng’ của Trần Thuỳ Mai)Đối với người cầm bút, trong những ý niệm thuần khiết nhất của trí tưởng tượng, mỗi người đều có những nhận thức và ám ảnh khác nhau. Riêng Trần Thuỳ Mai, ý niệm thuần khiết trong trí tưởng tượng của chị là một bến bờ xa vắng, nơi ẩn chứa những hạn cuộc huyễn hoặc và khát khao tận cùng trước giả, thật cuộc đời. Đó cũng là điều chị đã gửi gắm trong tập truyện mới: “Quỷ trong trăng” (NXB Trẻ - 2001), tác phẩm văn xuôi được giải tặng thưởng hàng năm của Liên hiệp Hội VHNT Thừa Thiên Huế.

  • NGUYỄN THỊ LÊ DUNGBao đời nay, thơ vẫn là một hằng số bí ẩn bảo lưu chất trẻ thơ trong tâm hồn con người. Nó gắn với đời sống tâm linh mà tâm linh thì không hề có tuổi, do vậy, nên dù ở chu kì sinh học nào, người ta cũng sống với thế giới thi ca bằng trái tim không đổi màu.

  • TẠ VĂN SỸĐọc tập thơ CÁT MẶN của LÊ KHÁNH MAI, NXB Hội nhà văn - Hà Nội 2001

  • LÊ THỊ MỸ ÝĐọc tập truyện ngắn "NGƯỜI ƠI" - Lê Thị Hoài - NXB Thuận Hoá 2001

  • HỒNG DIỆUVâng. Thơ của nhà thơ Nguyễn Bính (1918-1966) viết ở Huế, trong đó có thơ viết về Huế và thơ viết về những nơi khác.

  • HÀ VĂN LƯỠNGBài viết này như là một nén nhang tưởng niệm nhà văn Aitmatov vừa qua đời ngày 11-6-2008)

  • UYÊN CHÂU(Nhân đọc “Mùa lá chín” của Hồ Đắc Thiếu Anh)Những ai từng tha phương cầu thực chắc chắn sẽ thông cảm với nỗi nhớ quê hương của Hồ Đắc Thiếu Anh. Hình như nỗi nhớ ấy lúc nào cũng canh cánh bên lòng, không dứt ra được. Dẫu là một làn gió mỏng lướt qua cũng đủ rung lên sợi tơ lòng: Nghe hương gió thổi ngoài thềm / Trái tim rớm lệ trở mình nhói đau (Đêm nghiêng).

  • LGT:Rainer Maria Rilke (1875 – 1926) người Áo, sinh tại Praha, đã theo học tại Praha, Muenchen và Berlin triết học, nghệ thuật và văn chương, nhưng không hoàn tất. Từ 1897 ông phiêu lưu qua nhiều nước Âu châu: Nga, Worpswede (Ðức) (1900), Paris (1903) và những nước khác trong và sau thời thế chiến thư nhất (Thụy sĩ, Ý…). Ông mất tại dưỡng viện Val-Mont vì bệnh hoại huyết.

  • Giới thiệu tập thơ đầu tiên của anh Khúc ru tình nhà thơ Ngô Minh viết: “Toàn từng làm thơ đăng báo từ trước năm 1975. Hơn 20 năm sau Toàn mới in tập thơ đầu tay là cẩn trọng và trân trọng thơ lắm lắm”.

  • 1. Trước khi có cuộc “Đối thoại với Cánh đồng bất tận” trên báo Tuổi trẻ tháng 4. 2006, Nguyễn Ngọc Tư đã được bạn đọc biết đến với tập truyện ngắn Ngọn đèn không tắt, giải Nhất trong cuộc vận động sáng tác Văn học tuổi XX (lần 2) năm 2000, được tặng thưởng dành cho tác giả trẻ của Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật Việt Nam năm 2000, giải B của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2001…

  • Nhân ngày 9/5 chiến thắng phát xít Đức.

  • ...Đưa người ta không đưa qua sôngSao có tiếng sóng ở trong lòng?...