NGUYỄN ĐẮC XUÂN
Đề cập đến sự nghiệp cầm bút của Thượng Chi Phạm Quỳnh cần phải có một cái viện nghiên cứu làm việc trong nhiều năm mới hiểu hết được. Do hoàn cảnh lịch sử, tôi chưa bao giờ dám nghĩ đến mình có thể tìm hiểu một khía cạnh nào đó trong sự nghiệp to lớn của ông.
Một số đầu sách của Phạm Quỳnh và viết về Phạm Quỳnh - Ảnh: NĐX
Nhưng rồi, bất ngờ trong lúc đi học Huế, nghiên cứu Huế, viết bài giới thiệu Huế, tôi gặp được ông qua bút ký “Mười ngày ở Huế” đăng trên báo Nam Phong số 10 xuất bản vào tháng 4 năm 1918. Bút ký Mười ngày ở Huế đã “hớp hồn” tôi, khiến cho tôi mê sách báo của ông và trong tủ sách của tôi có một ngăn dành cho bộ sưu tập Phạm Quỳnh gồm hàng chục số báo Nam Phong, thư mục báo Nam Phong, sách tạp chí chuyên đề về Phạm Quỳnh xuất bản trước và sau năm 1975, sách xuất bản ở nước ngoài sau năm 1975, trong đó có nhiều bản do người thân của ông ký tặng. Và, không những trước tác của ông mà còn có cả sách của người rễ rất hay chữ Nguyễn Tiến Lãng của ông nữa. Tôi rất hân hạnh nhiều lần được giới thiệu bộ sưu tập nầy với hậu duệ của ông khi họ đến thăm tôi ở cái gác bên bờ sông Thọ Lộc.
Ở đây tôi xin phép lược ghi lại chuyện “Tôi cảm thụ, học cách tư duy và thể hiện của học giả Phạm Thượng Chi trong “Mười ngày ở Huế” để viết sách giới thiệu Huế”
1. Cảm thụ
Phạm Thượng Chi chỉ đến Huế có 10 ngày, vào đầu năm 1918, nhân Huế có lễ tế Nam Giao. Ông đi đò trên sông Hương, viếng các lăng vua Nguyễn, đi dự lễ tế Nam Giao, thăm Đại Nội, xem hát tuồng ở Quốc Tử Giám, thăm chùa Thiên Mụ, thăm Đạm Phương nữ sử, thăm Thiền sư Viên Thành chùa Ba La Mật v.v. Những gì ông viết trong Mười ngày ở Huế là cái kim chỉ nam cho việc nghiên cứu và viết giới thiệu Huế của tôi trong hơn 30 năm qua.
Thực vậy, tôi sinh ra ở Huế, thời học sinh Trung học và Đại học đều ở Huế, hằng ngày qua lại sông Hương. Nhưng mãi cho đến khi đi kháng chiến về, đi học Huế, tôi mới hiểu được cái đẹp và cái giá trị tuyệt vời của con sông Hương qua Mười ngày ở Huế của Phạm Thượng Chi. Ông viết:
“Cái phong cảnh Huế sở dĩ đẹp là thứ nhất bởi con sông Hương Giang. Con sông xinh thay! Hà Nội cũng có sông Nhị Hà, mà sông Nhị Hà với sông Hương khác nhau biết chừng nao! Một đằng ví như cô con gái tươi cười, một đằng ví như bà lão già cay nghiệt! Nhi Hà là cái thiên tai của xứ Bắc, Hương Giang là cái châu báu của xứ Kinh. Nước trong như vắt, dòng phẳng như tờ, ít khi có tí sóng gợn trên mặt, đi thuyền trên sông như đi trong hồ vậy. Huế không có con sông Hương thì tưởng cái đẹp của xứ Huế giảm mất nửa phần. Nhưng đã có sông Hương lại có núi Ngự nữa, cái cảnh mới thực là toàn xinh. Ngự Bình không phải là một núi cao như núi Phú Sĩ nước Nhật, Hương Giang không phải là một sông rộng như sông Hoàng Hà nước Tàu. Nên nói rằng sông ấy, núi ấy làm hiểm trở cho chốn Đế kinh thì cũng là nói quá, nhưng sông ấy, núi ấy thực là vẽ nên phong cảnh xứ Huế vậy. Và cái khí vị của phong cảnh Huế không phải là cái khi vị hùng tráng, mà là cái khi vị mĩ diệu; cảnh Huế xinh mà đẹp, không phải hùng mà cường, đáng yêu mà không phải là đáng sợ, có thi vị mà không có khí tượng. Phải nhận kỹ như thế thì mới khỏi nhầm mà hiểu được tinh thần của cái bức sơn thủy hiển nhiên ấy”[1].
Suốt thế kỷ qua, đã có biết bao bài viết dành cho sông Hương nhưng cho đến nay chưa có bài nào mô tả một cách súc tích mà cụ thể, đánh giá đúng mức cái vị thế đặc biệt của sông Hương bằng Mười ngày ở Huế của Phạm Thượng Chi.
Đi xem các lăng vua Nguyễn, ông viết chuyện đi thăm lăng rồi đánh giá:
“Không những mấy nơi đó (lăng tẩm các vua Nguyễn) là những nơi thắng tích đệ nhất của nước ta mà lại có thể liệt vào bậc những nơi thắng tích của cả thế giới nữa. Hoàn cầu dễ không đâu có chốn nhà mồ của bậc vua chúa nào mà khéo hòa hợp cái cảnh thiên nhiên với cái cảnh nhân tạo gây nên một cái khí vị riêng như não nùng, như thương nhớ, như lạnh lẽo, như hắt hiu, mà lại như đầy những thơ những mộng, khiến người khách vãn cảnh luống những ngẩn ngơ trong lòng. Mà cái cảm giác ấy không phải là người mình mới có, dẫu người ngoại quốc đi du lịch đến đây cũng phải cảm như thế”[2].
Đi thăm lăng tẩm các vua Nguyễn, Phạm Thượng Chi đã cảm nhận được cái hồn của các khu lăng. Đặc biệt nhất, từ đầu thế kỷ XX, ông đã thấy được cái giá trị của sự “hòa hợp cái cảnh thiên nhiên với cái cảnh nhân tạo”. Sự hài hòa đó chính là loại hình “kiến trúc phong cảnh” (architecture paysagiste) mà mãi đến thế kỷ XX thế giới mới quan tâm và phấn đấu thực hiện.
Sau Mười ngày ở Huế, Phạm Thượng Chi tôn vinh cái vai trò lịch sử của Kinh đô Huế: xưa thì từ đây đi mở cõi, nay (1918) giữ được cái quốc hồn cho dân tộc. Ông viết:
“Lấy lịch sử mà xét, lấy địa thế mà chứng, lấy cái tình thế chính trị ngày nay mà chiêm nghiệm, lấy lòng khuynh hướng quốc dân sau nầy mà dự đoán, thành Huế thực là chốn căn cứ, nơi yếu điểm của giống Việt Nam, xưa đã nhờ đấy mà gây dựng nên bờ cõi, nay lại nhân đấy mà nói lên cái tư cách một dân quốc hoàn toàn. Ôi! Phàm đã gọi là một dân quốc không thể giây phút thiếu cái tư tưởng, cái tinh thần một dân quốc. Tư tưởng ấy, tinh thần ấy gọi một tên tức là cái quốc hồn vậy. Quốc hồn của Việt Nam ta ngày nay phải tìm ở đâu cho thấy? Thiết tưởng phi ở Huế không đâu thấy vậy” [3].
Để cho quốc dân tin vào sự đánh giá của ông, ông viết tiếp:
“Cổ ngữ châu Âu “Trăm con đường đều quay đầu về thành La Mã”. Có ý nói thành La Mã là trung tâm lịch sử của châu Âu ngày xưa […] Thành La Mã của Việt Nam ta là ở đâu? Tức là nơi đế đô bây giờ, đất Thuận Hóa khi xưa, Kinh thành Huế ngày nay vậy”[4]
Lúc mới đọc Mười ngày ở Huế, tôi chưa hiểu hết ý nghĩa của sự đánh giá trên. Nhưng càng về sau, tôi càng thấy hết sức sâu sắc. Năm 1918, sau Thế chiến I (1914 - 1918), kinh tế nước Pháp kiệt quệ, vì vậy chế độ cai trị của Pháp ở Việt Nam rất khắc nghiệt. Thế mà Phạm Thượng Chi vẫn ngang nhiên ca ngợi cái quốc hồn của dân tộc Việt đang ở trong tay người Pháp. Ông từng viết “Truyện Kiều còn thì tiếng ta còn, tiếng ta còn thì nước ta còn”. Cũng với dòng tư duy ấy, Kinh đô Huế còn giữ được cái quốc hồn thì dân tộc còn giữ được nước. Vai trò của Kinh đô Huế không ngờ lớn đến thế. Nhưng rồi trải qua hai cuộc chiến tranh, vai trò lịch sử của Huế mờ dần. Đến nay, dù đất nước đã thoát khỏi ách thống trị của ngoại bang nhưng với xu thế Âu hóa một cách thiếu chọn lọc, cái hồn dân tộc đang bị thử thách. Vai trò của Huế lại nổi lên. Chuyện Phạm Thượng Chi viết cách đây gần một thế kỷ nhưng tôi lại có cảm tưởng như ông viết để nhắc nhở chúng ta ngay ngày hôm nay.
2. Học cách tư duy và thể hiện “Mười ngày ở Huế” của học giả Phạm Thượng Chi để viết sách giới thiệu Huế
Đối với tôi, muốn thực hiện một đề tài, trước nhất phải định cho được phương pháp nghiên cứu cho đề tài đó. Có phương pháp đúng thì đề tài mới được triển khai thuận lợi và đúng đắn. Viết về Huế tôi học phương pháp tư duy và cách thể hiện của Thượng Chi qua bút ký Mười ngày ở Huế.
2.1. Viết từ thực tế điền dã, từ người thực việc thực, chứ không phải tưởng tượng, hư cấu
Trước khi đến Huế, ông đã nắm vững tài liệu lịch sử Thuận Hóa Phú Xuân. Nhưng với cái vốn lịch sử ấy ông đi vào thực tế tiếp xúc với sự vật và con người: Phải đi trên sông Hương mới viết sông Hương, phải đi thăm lăng các vua Nguyễn mới viết chuyện lăng, phải gặp Đạm Phương nữ sử, gặp Sư Viên Thành mới viết chuyện bà Đạm Phương, viết chuyện Sư Viên Thành. Nhờ thế thông tin trong bài viết của ông dù trải qua thử thách của thời gian vẫn còn giữ nguyên giá trị;
2.2. Thông tin dựa vào lịch sử
Ông giỏi chữ Pháp và cũng rất giỏi chữ Hán. Lịch sử triều Nguyễn, lịch sử Kinh đô Huế ông đọc từ nguyên bản chữ Hán. Ngoài chính sử, ông còn khai thác cả gia phả. Nhiều chi tiết, nhiều sự kiện lịch sử thú vị không có trong chính sử, ông rút ra từ trong gia phả. Ông tiếp xúc với bà Đạm Phương và Sư Viên Thành, ông đề cập đến gia phả họ Nguyễn Khoa. Bắt chước ông, trong mấy chục năm qua tôi đã sưu tập được hàng chục bộ gia phả, niên ký, hồi ký của các đại tộc, các nhân chứng lịch sử và nhờ thông tin trong gia phả, niên ký, hồi ký ấy mà tôi đã đính chính được nhiều sự kiện còn nằm trong góc đen của lịch sử. Loạt bài đính chính quan trọng nhất của tôi là viết về những sai lầm của ông Nguyễn Hiển Dĩnh ở Quảng Nam. Một Việt gian lại được vinh danh là người anh hùng yêu nước.
2.3. So sánh với những đồng dạng thế giới
Viết “Mười ngày ở Huế” lúc tác giả Phạm Quỳnh mới 26 tuổi (1892 - 1918). Nhưng ông đã thông kim, bác cổ. Ông viết về Kinh đô Huế với sự hiểu biết, với tầm nhìn quốc tế. Để thấy những giá trị của Kinh đô Huế ông đã so sánh những thắng cảnh, những công trình của Kinh đô Huế với những đồng dạng của thế giới. So sánh như thế mới thấy giá trị nổi bật của Kinh đô Huế.
Ông so sánh vai trò giữ cái quốc hồn Việt Nam của Kinh đô Huế giống như thành La Mã (Roma) với văn minh văn hóa châu Âu;
Ông so sánh sông Hương với sông Nhị Hà ở Hà Nội, so sánh với sông Hoàng Hà của nước Tàu;
Ông so sánh lăng các vua Nguyễn với những lăng mộ nổi tiếng trên thế giới. Ông viết:
“Trong thế giới chắc còn lắm nơi lăng tẩm đẹp hơn nhiều: như ở Ấn Độ có cái mả bà chúa toàn bằng ngọc thạch, ở Âu Châu cũng có lắm nơi mộ địa rất là u sầm. Nhưng không đâu cái công dựng đặt của người ta với cái vẻ thiên nhên của giời đất khéo điều hòa nhau bằng ở đây…”[5]
Với một kiến thức uyên bác trong một tâm hồn tự tôn dân tộc mạnh mẽ, ông không đem cái vật chất khiêm tốn của mình ra so với vật chất của thế giới, nhưng ông tìm được cái hơn của mình không phải về vật chất mà chính là cái hồn sống hài hòa với vũ trụ của các lăng vua Nguyễn. Tôi đã đọc nhiều, đã đi Đông, đi Tây nhưng cho đến nay, tôi vẫn chưa dám đem những giá trị văn hóa tinh thần, giá trị văn hóa vật chất của Huế ra so với những cái đồng dạng của thế giới. Dù biết món ăn Huế nổi tiếng nhưng tôi chưa dám so sánh món ăn Huế với món ăn Pháp, chưa dám so sánh Cố đô Huế với Cố đô Kyoto, chưa dám so sánh kiến trúc cửa Ngọ Môn với Thiên An Môn của Trung Quốc. Thế mới thấy bài viết của ông cách đây gần một thế kỷ mà vẫn còn là một mục tiêu phấn đấu của thế hệ cầm bút ngày nay.
2.4. Phát hiện cái mới
Những Kinh đô Huế, lăng tẩm Huế, sông Hương núi Ngự có đó, những người cầm bút đến Huế đều có trước tác. Nhưng dưới mắt Phạm Thượng Chi những thứ ấy được đặt trên mặt bằng thế giới. Và, không chỉ có thế, ông đến Huế chỉ có 10 ngày thôi mà ông đã phát hiện ra những con người mới, những đề tài mới. Ví dụ năm 1918 ông đề cập đến Sư Viên Thành thì phải đợi đến năm 1971 Nguyễn Văn Thoa mới cho ra đời được công trình “Tra Am và Sư Viên Thành”, ông gặp gỡ Đạm Phương nữ sử, ông thấy vai trò quan trọng của Đạm Phương và thân sinh của bà là Hoằng Hóa Quận Vương Miên Triện trong văn hóa nghệ thuật của Kinh đô, thế mà mãi đến năm 2011, ở Huế mới có một Hội thảo khoa học về Đạm Phương nữ sử. Và, qua hội thảo nầy tôi mới có dịp viết về Hoằng Hóa Quận Vương Miên Triện[6]. Học Phạm Thượng Chi, tôi luôn luôn tâm niệm bắt chước ông tìm ra những vấn đề mới, những sự kiện chưa ai biết rõ, hoặc làm mới những vấn đề đã cũ với cách nhìn tiên tiến nhất.
Tôi nhập vào làng cầm bút viết về Huế chậm hơn nhiều người lứa tuổi tôi. Nhưng may mắn, tôi được đọc “Mười ngày ở Huế” của Phạm Thượng Chi sớm, sớm được trang bị một tư duy đúng đắn, rồi cứ thế mà tiến tới, chỉ sợ mình không đủ sức đi tới cùng chứ không hề sợ bị lạc đường. Cho đến nay tôi đã có gần 60 đầu sách về triều Nguyễn và Huế xưa. Trong gần 60 đầu sách đó có nhiều cuốn có thể có người cho là không hay, nhưng không có cuốn nào sai phải tặng cho bà hỏa. Có được thành quả đó nhờ tôi đã đi theo sự chỉ đường của tác giả “Mười ngày ở Huế”.
N.Đ.X
(SH284/10-12)
[1] Tạp chí đã dẫn, tr. 204, cột 1 và cột 2, hoặc Phạm Quỳnh, Mười ngày ở Huế, Nxb Văn học, HN. 2001, tr. 26.
[2] Phạm Quỳnh, Mười ngày ở Huế, Nxb Văn học, HN. 2001, tr. 49.
[3] Tạp chí Nam Phong số 10, 4 -1918, tr.202, cột 2 và tr.203 cột 1). Phạm Quỳnh, Mười ngày ở Huế, Nxb Văn học, HN. 2001, tr. 22.
[4] Tạp chí đã dẫn, tr. 202, cột 2. Phạm Quỳnh, Sđd tr. 21& tr.22.
[5] Phạm Quỳnh, Sdd. Tr. 51 và 52.
[6] Xem Hoằng Hóa Quận Vương Miên Triện - thân sinh của Đạm Phương nữ sử, Tc Kiến Thức Ngày Nay số 750, ra ngày 10-6-2011, từ tr. 11 đến tr. 15 và tr. 128.
HÀ MINH ĐỨC Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.
BĂNG SƠN Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.
PHAN THUẬN THẢO Chiều chiều trước bến Vân Lâu Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm, Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông. Thuyền ai thấp thoáng bên sông, Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non. (Ưng Bình Thúc Giạ)
LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!
BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm
MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.
VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.
HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.
MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.
VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.
NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.
DƯƠNG PHƯỚC THU Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.
TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.
TÔN NỮ KHÁNH TRANG Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.
TRƯƠNG THỊ CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.
NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.
BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.
NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.
PHAN THUẬN AN Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương. (Bùi Giáng)
NGUYỄN VĂN THỊNHCũng như trên cả nước, trước cách mạng tháng Tám, làng (tên gọi chữ Hán là xã), ở Thừa Thiên Huế là một đơn vị cơ bản trong tổ chức hành chính của các vương triều.