Toa thuốc bổ "Nhất dạ ngũ giao" của vua Minh Mạng

15:34 04/10/2018

PHAN THUẬN AN

Cũng như các triều đại quân chủ khác trong lịch sử Việt Nam, triều đại nhà Nguyễn (1802-1945) đã lập ra tại kinh đô một cơ quan chuyên trách về y tế, gọi là Thái Y Viện, để chăm lo sức khỏe cho hoàng gia và điều hành công việc chữa bệnh cho mọi người trong nước.

Ảnh: internet

Nguyên tắc chung của thiết chế bộ máy hành chánh nhà nước là như thế, nhưng xem ra trên thực tế, nhiệm vụ chủ yếu của cơ quan y tế trung ương này là trông coi, phục vụ sức khỏe cho vua và hoàng gia. Cho nên, chúng ta không lạ gì khi thấy sử sách của triều Nguyễn còn gọi Thái Y Viện là Ngự Y Viện (1) và viện này đóng ngay trong Tử Cấm Thành là nơi dành riêng cho nhà vua và gia đình ăn ở sinh hoạt hàng ngày.

Viện Thái Y được thiết lập từ thời Gia Long (1802-1819) và tồn tại mãi đến thời Bảo Đại (1926-1945), nhưng trong số 13 vua nhà Nguyễn, có 2 ông vua đã tỏ ra quan tâm nhiều nhất về tổ chức, hoạt động và hiệu quả của cơ quan này, là vua Minh Mạng (1820-1840) và vua Tự Đức (1843-1883)(2). Hai vua có 2 lý do khác nhau.

Vua Tự Đức thì vì thể chất yếu đuối bẩm sinh hay đau ốm, bị bệnh đậu mùa biến chứng trở thành "bất lực", không sinh đẻ được, rất muốn có con để truyền ngôi. Nhưng, sự đời thật oái ăm, trong khi ba ông vua đầu nhà Nguyễn đều có con đàn cháu đống:

- Vua Gia Long sinh được 31 người con (13 hoàng tử, 18 hoàng nữ)

- Vua Minh Mạng sinh được 142 người con (78 hoàng tử, 64 hoàng nữ)

- Vua Thiệu Trị sinh được 64 người con (29 hoàng tử, 35 hoàng nữ) thì vua Tự Đức, ông vua thứ tư, không sinh được một mụn con nào để thừa kế ngai vàng, mặc dù khi vua băng hà, vẫn còn đến 103 cung nữ sống trong Tử Cấm Thành(4).

Trường hợp vua Minh Mạng thì khác hẳn. Nhìn vào những áo quần mà ông vua này mặc lúc sinh thời và hiện nay Viện Bảo Tàng Huế đang gìn giữ và trưng bày, chúng ta thấy rõ vua Minh Mạng là người to béo, vạm vỡ và thể-chất chắc hẳn là rất khỏe mạnh. Đã cường tráng, sung sức như vậy rồi thì cần dùng thêm thuốc bổ làm gì nữa ?

Người ta thường trả lời rằng nhà vua cần tăng lực để thỏa mãn cái thú vui xác thịt với hàng trăm bà vợ trong hoàng cung. Vua Minh Mạng có bao nhiêu bà vợ ? Hiện nay không ai biết được con số ấy một cách chính xác, vì sử sách không ghi rõ. Bộ sách "Minh Mạng chính yếu" của Quốc Sử Quán Triều Nguyễn chỉ tiết lộ cho biết rằng vào tháng giêng năm Minh Mạng thứ 6 (tức là tháng 2 năm 1825), "trong kinh kỳ ít mưa, nhà vua lấy hạn làm lo, chỉ dụ cho quan Thượng Bảo khanh là ông Hoàng Quýnh rằng: "Hai ba năm trở lại đây, hạn hán liên tiếp. Trẫm nghĩ xem vì đâu mà đến thế, nhưng chưa tìm ra nguyên nhân; có lẽ trong thâm cung, cung nữ nhiều, nên âm khí uất tắc mà nên vậy ư? Nay bớt đi, cho ra một trăm người, ngõ hầu có thể giải trừ thiên tai vậy"(5) Con số bớt đi đã là 100, vậy số lượng các bà còn lại trong cung chắc hẳn phải vài trăm trở lên. Âm thịnh như thế thì nhà vua quá cần thuốc bổ để cường dương.

Nhưng, theo tương truyền thì đó chưa phải là lý do đầu tiên để các vị "Ngự y" trong triều dâng lên cho vua Minh Mạng thang thuốc bổ mà chúng ta đang nói đến. Một số lương y hiện nay ở Huế có nghe các vị Ngự y tiền bối kể lại rằng vua Minh mạng đã xài phí sức lực vào việc giới tính hơi sớm, ngay từ thời còn là hoàng tử. Một thời gian trước khi lên ngôi vào năm 1820 giữa lúc 29 tuổi, ông rất yếu về đường sinh dục. Cho nên, sau khi đăng quang, vua ra lệnh cho các vị Ngự y phải cố gắng giúp vua lấy lại sức khỏe. Do đó, các Ngự y đã "đối chứng lập phương", làm ra một thang thuốc bổ ngâm rượu để nhà vua dùng hàng ngày và thang thuốc rất hiệu nghiệm.

Cái hiệu nghiệm đầu tiên rất cụ thể là về mặt sinh lý. Trong đời mình, nhà vua đã sinh được 78 người con trai và 64 người con gái như đã nói ở trên. Về sau, vua Thiệu Trị, người con trai trưởng, đã rất tự hào về khả năng to lớn đó của vua cha và đã viết ở trong bài văn bia ở lăng Minh Mạng rằng: "Bách tứ thập nhị, giáo dĩ nghĩa phương" (có 142 người con đều được dạy về đạo nghĩa).

Cái hiệu nghiệm thứ hai là về mặt tinh thần, trí tuệ. Lịch sử cho thấy trong ngót 20 năm trị vì (1820-1840), vua Minh Mạng đã làm việc rất nhiều và đã mang lại nhiều thành quả tốt đẹp cho đất nước về nhiều phương diện: hành chánh, kinh tế, văn hóa, xã hội v.v... Có thể nói thời Minh Mạng là đỉnh cao của triều Nguyễn. Làm thành công được nhiều như thế là nhờ có tâm trí sáng suốt. Có lẽ phương thuốc Ngự y mà vua Minh Mạng dùng hàng ngày đã đóng góp hỗ trợ không nhiều thì ít vào trong các hoạt động tâm trí, các tư duy chính trị thường nhật của nhà vua.

Theo nguyên tắc của triều đình, toa thuốc bổ ấy chỉ dành riêng cho vua Minh Mạng dùng mà thôi, không ai được phép bắt chước sử dụng. Nhưng, vì công hiệu rõ ràng và kết quả tốt đẹp của nó, các quan lớn trong triều đã "phạm thượng" một cách bí mật bằng cách sao chép toa thuốc đem về dùng ở nhà, rồi sau đó lan truyền dần ra trong dân gian.

Ngay từ thời Minh Mạng, toa thuốc đã được đặt tên là "Nhất dạ ngũ giao" (Nghĩa là một đêm năm lần gặp), gọi tắt từ một câu thơ tương truyền là nói về hoạt động sinh lý của vua Minh mạng:

- Nhất dạ ngũ giao sinh tứ tử.

- Nhất dạ ngũ giao sinh lục tử.

(Ngoài ra còn có câu: Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử).

Trong mấy chục năm gần đây, vì nhu cầu phục vụ sức khỏe cho mọi người, một số sách báo Đông y và Y học Dân tộc ở miền Nam, nhất là tại Sài gòn, đã đăng tải toa thuốc đó bằng chữ quốc ngữ với các dị bản khác nhau. Toa này toa kia có thay đổi vài ba vị thuốc. Số lượng vị thuốc cũng không bằng nhau : Có toa gồm 22 vị, có toa lên đến 25 vị.

Dưới đây xin chọn toa thuốc bổ của vua Minh Mạng được chép theo sách "Những phương thuốc bổ và trường xuân trong Y học cổ truyền Đông phương" của lương y Lê Văn Sơn, xuất bản tại tỉnh Sông Bé vào năm 1987:

A.-Thành phần các vị thuốc:

1. Sa Sâm : 5 chỉ
2. Cẩu kỷ tư : 2 -
3. Bạch truật : 3 -
4. Đào nhân : 5 -
5. Đương qui : 3 -
6. Mộc qua : 2 -
7. Thục địa : 5 -
8. Tục đoạn : 2 -
9. Phòng phong : 3 -
10. Nhục quế : 1 -
11. Tần giao : 2 - 
12. Độc hoạt : 2 -
13. Bạch thược : 3 -
14. Trần bì : 3 -
15. Khương hoạt: 2 -
16. Phục linh : 3 -
17. Đại hồi : 2 -
18. Cam thảo : 3 -
19. Đại táo : 2 -
20. Xuyên khung: 3 -
21. Đỗ trọng : 2 -
22 Thương truật: 2 -

Theo toa thuốc "Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử" đăng ở Nhật báo Sống tại Sài gòn số ra ngày 27.4.1968, thì ngoài 22 vị thuốc kể trên, toa thuốc Minh Mạng còn có thêm 3 vị khác nữa:

1. Cao hổ cốt : 1 chỉ
2. Cao ly tử : 3 -
3. Hồng cúc : 2 -

Ở cuối toa thuốc, tài liệu này lưu ý rằng người có máu nóng nên bỏ bớt 2 vị Đại hồi và Nhục quế; còn người có máu lạnh thì thêm vị Ngưu tất, 3 chỉ.

B. - Cách chế và dùng:

Có hai cách chế thuốc là ngâm và chưng.

1.- Ngâm thuốc: Ngâm tất cả các vị thuốc ấy vào 2 lít rượu trắng (loại rượu tốt) trong 5 ngày đêm. Lọc rượu ra, pha thêm nửa lít nước đã đun sôi cùng với 300gr đường phèn. Trộn đều để dùng. Lấy bã thuốc ấy ngấm nước nhì, cũng với 2 lít rượu trắng tốt và ngâm trong 1 tháng. Sau đó, cũng pha với nửa lít nước nấu tan 300 gr đường phèn.

2.- Chưng thuốc: Muốn có thuốc nhanh hơn để uống, thì chế thuốc bằng cách chưng. Cho thuốc và 2 lít rượu tốt vào trong 1 cái thố (tìm) bằng sành. Đậy nắp và bịt mí bằng băng keo cho kín để rượu khỏi bốc hơi ra ngoài. Đặt thố vào trong 1 cái soong nhôm lớn hơn nó. Đổ nước cao lên bằng 1/2 chiều cao của thố, không đậy nắp soong. Đặt soong lên bếp lửa riu riu (lửa nhỏ) trong thời gian khoảng 2 giờ. Sau đó, lấy thố ra, rót riêng rượu, giữ bã thuốc lại. Rồi cho vào bã ấy 1 lít rượu khác, chưng nước nhì trong vòng 1 giờ rưỡi. Xong, lấy rượu, bỏ bã. Dùng từ 100 đến 300 gr đường phèn (tùy theo mức độ thích uống ngọt) nấu cho tan trong 1/4 hoặc 1/2 lít nước (tùy người dùng rượu độ cao hay thấp) rồi hòa chung với rượu đã chưng mà uống.

Uống một ly nhỏ trong mỗi bữa ăn và trước khi đi ngủ.

C.- Công dụng: Toa thuốc bổ dùng với rượu của vua Minh Mạng có tác dụng đặc biệt như sau:

1. Đại bổ khí huyết. Tăng cường sinh lực. Bồi bổ thần kinh.

2. Trị bịnh đau lưng và nhức mỏi. Bồi bổ cho sản phụ.

3. Người liệt dương uống từ 1 đến 2 tháng có thể có con.

4. Người khản tiếng, nói không nghe rõ, uống vào nói to được.

5. Thận yếu lâu, bán thân bất toại, đi đứng không được, dùng rất tốt.

6. Người già từ 60 tuổi trở lên, uống vào thì tăng tuổi thọ, đêm ngủ không mộng mị, khỏi bị táo bón.

Theo lương y Phan Quật hiện đang hành nghề ở Huế thì thang thuốc này là một tổng hợp của nhiều vị thuốc, gồm có thang Bát trân (sâm, linh, truật, thảo, địa, thược, khung, qui) chủ trị khí huyết suy nhược và một số vị thuốc có tác dụng làm mạnh gân xương, trị nhức mỏi, kích thích tiêu hóa, an thần và nhất là bổ thận, cường dương. Xét kỹ dược tánh của nó có thể kết luận đây là một toa thuốc bổ dùng để trợ lực, sanh tính khí, tạo điều kiện tốt hầu thỏa mãn cho cuộc sống và ý muốn sinh nhiều con cái của một đấng quân vương.

Ngày nay, người thiếu sức khỏe, nhất là người hiếm muộn con cái nên dùng toa thuốc đó. Tất cả những vị thuốc trong toa đều đang thấy bán nhiều ở các hiệu thuốc với giá không đắt lắm. Nhưng, nếu ai có điều kiện dùng thì cũng phải vận dụng số lượng và cân lượng các vị thuốc cho thích hợp với thể trạng của mình. Hay hơn hết là được các lương y "đối chứng lập phương" cho thật chính xác theo y lý để đạt được những hiệu quả tốt đẹp tối đa như mong muốn.

P.T.A.
(TCSH44/01-1991)

---------------
Chú thích:

(1) Đại Nam Nhất Thống Chí, Kinh sư, bản dịch của Nguyễn Tạo, Nhà Văn Hóa Xuất bản, Sài gòn, 1960, trang 25, 71.
(2) Đại Nam Thực Lục, bản dịch của Viện Sử Học, Hà nội, tập XIII, trang 329; tập XXVII, trang 254-255; tập XXVIII, trang 285-286, 301; tập XXXI, trang 290, 294; tập XXXIII trang 279, 327; tập XXXV, trang 132.
(3) Richard Orband, Les tombeaux des Nguyễn, Bulletin de l’Ecole Française d’Extrême - Orient, 1914, trang 1-64.
Tôn Thất Cổn, Constitution de la Famille Impériale d’ An-nam, Huế, 1942, trang 22-29.
(4) Ch.Gosselin, L’Empire d’Annam. Dẫn bởi Dr Gaide và H.Pey-sonneaux, Les tombeaux de Huế: Prince Kiến Thái Vương. B.A.V.H. 1925 trang 26.
(5) Minh Mạng chính yếu, quyển I, tờ 7b, bản dịch, tập I của Hoàng Du Đồng và Hà Ngọc Xuyền, Phủ quốc vụ khanh đặc trách Văn Hóa xuất bản, Sài gòn, 1972, trang 37.






 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HÀ MINH ĐỨC                   Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.

  • BĂNG SƠN           Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.

  • PHAN THUẬN THẢO                Chiều chiều trước bến Vân Lâu                Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm,                Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông.                Thuyền ai thấp thoáng bên sông,                Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non.                                              (Ưng Bình Thúc Giạ)

  • LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!

  • BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm

  • MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.

  • VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.

  • HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.

  • MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.

  • VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.

  • NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar  M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                       Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.

  • TÔN NỮ  KHÁNH TRANG              Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.

  • TRƯƠNG THỊ  CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.

  • NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.

  • BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.

  • NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.

  • PHAN THUẬN AN            Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương.                                              (Bùi Giáng)

  • NGUYỄN VĂN THỊNHCũng như trên cả nước, trước cách mạng tháng Tám, làng (tên gọi chữ Hán là xã), ở Thừa Thiên Huế là một đơn vị cơ bản trong tổ chức hành chính của các vương triều.