Ảnh: vapa.org.vn
Tố Hữu là nhà thơ lớn của dân tộc, là một trong những người khai sinh ra nền văn học Việt Nam hiện đại. Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp thi ca của ông hòa quyện vào nhau trong từng bước đi của lịch sử và thời đại. Trong lời tự bạch của mình, in trong cuốn Nhà văn Việt Nam hiện đại, ông viết: “Suốt đời, tôi phấn đấu vì sự nghiệp độc lập dân tộc và lý tưởng cộng sản. Cùng với hoạt động cách mạng, tôi làm thơ cũng vì sự nghiệp cách mạng. Đối với tôi: “Trăm năm duyên kiếp: Đảng và Thơ”. Toàn bộ thế giới nghệ thuật thơ Tố Hữu chính là sự quán xuyến thống nhất mối quan hệ đó. Từng tập thơ trong từng giai đoạn đều đánh dấu những bước ngoặt trọng đại của cách mạng Việt Nam. Thơ ông là tiếng nói đồng hành cùng lịch sử - dân tộc - thời đại - cách mạng, thể hiện sự nhạy cảm thi sĩ của ông trước những vấn đề lớn lao của hiện thực và tình cảm của con người Việt Nam yêu nước, yêu lý tưởng. Nó là sức mạnh tinh thần của nhiều thế hệ cho đến hôm nay và mai sau. Từ những vần thơ giàu nhiệt huyết tuổi trẻ. “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ - Mặt trời chân lý chói qua tim”, đến những vần thơ cuối đời khát khao bỏng cháy lòng yêu đời: “Ta bước tiếp trên đôi chân tráng kiện - Lại nghĩ suy bằng chính óc tim mình - Mừng thế kỷ hai mươi mốt đến - Cho sáng bừng mặt đất, ánh bình minh”, Tố Hữu đã đi trọn một hành trình thơ và hành trình đời tuyệt đẹp. “Duyên kiếp Đảng và thơ” đã làm nên một Tố Hữu - công dân và một Tố Hữu - thi sĩ hài hòa, cao cả. Từ tác phẩm đầu tay Từ ấy đến Việt Bắc, Ra trận, Máu và hoa đến tác phẩm sau cùng Một tiếng đờn là minh chứng cho cuộc sống - thơ và thơ - cuộc sống của Tố Hữu. Từ ấy ghi lại một thời kỳ lịch sử của phong trào đấu tranh cách mạng Việt Nam, thông qua sự nhận thức, hoạt động và chứng nghiệm của nhà thơ. Vì vậy, rất chân thành và nồng nhiệt. Một tâm hồn luôn mở rộng, thiết tha khi “chân lý chói qua tim”, Tố Hữu đã để tình mình “trang trải khắp trăm nơi” với bao số phận hẩm hiu, trôi nổi như em bé mồ côi, vú em, lão đầy tớ... và kêu gọi mọi người cùng đồng cảm: “Tôi không muốn mời anh đi xa lạ - Tìm đau thương trong xã hội điêu tàn - Kể làm sao cho hết cảnh lầm than - Lúc trái ngược đã tràn đầy tất cả”. Hiện tại phũ phàng ấy càng lúc càng làm cho nhà thơ dửng dưng, giận dữ: “Ta nện gót trên đường phố Huế - Dửng dưng không một cảm tình chi - Không gian sặc sụa mùi ô uế - Mà nước dòng Hương mãi cuốn đi”. Vì vậy mà tác giả nguyện “Tôi buộc hồn tôi với mọi người” để đấu tranh, hy vọng. Sau bao “máu lửa” và “xiềng xích”, Tố Hữu đã reo vui trong ngày hội Huế và Việt Nam giải phóng năm 1945. Hãy bay lên! Sông núi của ta rồi! Nước mắt ta trào, húp mí, tràn môi (...) Ai dám cấm ta say, say thần thánh Ngực lép bốn nghìn năm, trưa nay cơn gió mạnh Thổi phồng lên. Tim bỗng hóa mặt trời. Trong kháng chiến chống Pháp, Tố Hữu đã có bước trưởng thành vượt bậc trong sáng tạo và nhận thức tư tưởng qua Việt Bắc - tác phẩm trữ tình hùng ca hay nhất thời này, thể hiện sự gắn bó máu thịt của nhà thơ với Tổ quốc, Nhân dân, với Đảng, Bác Hồ và những tình cảm kết tinh của con người Việt Nam kháng chiến bằng tiếng nói nghệ thuật vừa dân tộc vừa hiện đại; vừa riêng vừa chung... thấm đẫm chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa nhân bản. Với tư cách là chủ thể trữ tình nhập vai nồng nhiệt, Tố Hữu đã thay mặt đồng đội, đồng bào ngợi ca những con người có tâm hồn sáng trong và dũng cảm. Cá nước, Phá đường, Bà Bầm, Bà Bủ, Lên Tây Bắc, Sáng tháng Năm, Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, Việt Bắc, Ta đi tới... là đỉnh cao của thơ trữ tình chính trị giai đoạn này. Mãi còn đây trong ký ức chúng ta hình ảnh cô gái phá đường nén tình riêng vì nghĩa lớn: “Em là con gái Bắc Giang - Rét thì mặc rét, nước làng em lo - Nhà em phơi lúa chưa khô - Ngô chửa vào bồ, sắn thái chưa xong - Nhà em con bế con bồng - Em cũng theo chồng đi phá đường quan - Con ơi, con ngủ cho ngoan - Sang canh trăng lặn buổi tan mẹ về”. Mãi còn đây hình ảnh bà Bầm - người mẹ yêu thương của bao nhiêu chiến sĩ để chiều chiều “có đứa con xa nhớ Bầm” trên đường ra mặt trận: “Bầm ơi, sớm sớm chiều chiều - Thương con, Bầm chớ lo nhiều Bầm nghe - Con đi trăm suối, nghìn khe - Chưa bằng muôn nỗi tái tê lòng Bầm”. Hình ảnh người lính cụ Hồ trong những ngày kháng chiến lại hiện lên với quy mô và tầm vóc hiên ngang, hoành tráng: “Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều - Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo - Núi không đè nổi vai vươn tới - Lá ngụy trang reo với gió đèo”. Đó chính là những “Chiến sĩ anh hùng - Đầu nung lửa sắt - Năm mươi sáu ngày đêm, khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt - Máu trộn bùn non - Gan không núng - Chí không mòn” để làm nên chiến công Điện Biên Phủ lịch sử. Và đẹp nhất trong biển lớn nhân dân, là hình tượng Bác Hồ - hình tượng lãnh tụ Hồ Chí Minh thiêng liêng mà gần gũi. Mối quan hệ giữa cái phi thường và cái bình thường được hóa giải trong nhau để làm nên sự hài hòa, cao quý: “Bác Hồ đó chiếc áo nâu giản dị - Màu quê hương bền bỉ đậm đà - Ta bên Người, Người tỏa sáng trong ta - Ta bỗng lớn ở bên Người một chút”. Khép lại chín năm kháng chiến, hồn thơ Tố Hữu lại có dịp bay cao, bay xa trên miền Bắc mùa xuân để ca ngợi con người và Tổ quốc trong công cuộc cải tạo và dựng xây. Chưa bao giờ tiếng thơ ông lại vang vọng, tươi vui như thế. Gió lộng là tập thơ thể hiện bước khẳng định mới trong nhận thức tư tưởng và năng lực sáng tạo của Tố Hữu. Cuộc sống khẩn trương lao động ở miền Bắc kết hợp với nỗi đau chia cắt Bắc - Nam đã làm nên chất trữ tình bi tráng của thơ Tố Hữu thời này. Ta bắt gặp trong thơ ông cái tươi mởn của “Cành táo đầu hè rung rinh quả ngọt - Nắng soi sương giọt long lanh” đến niềm vui sinh nở “Xuân ơi xuân, Xuân mới đến dăm năm - Mà cuộc sống đã tưng bừng ngày hội”, khiến tác giả không ghìm được tiếng reo ca: Thơ ta ơi! Hãy cất cao tiếng hát Ca ngợi trăm lần Tổ quốc chúng ta Mùa thu đó, đã bắt đầu trái ngọt Và bắt đầu nở rộ những vườn hoa. Trong mạch cảm xúc vui thời này, thơ Tố Hữu có thêm cung trầm xót xa khi nghĩ về miền Nam, nghĩ về Huế - quê mẹ bị cắt chia. Miền Nam - hai tiếng thiêng liêng luôn đánh thức nỗi nhớ mong da diết trong tác giả: “ Như nỗi niềm nhức nhối tim gan”, “ Như mối tình chung thuỷ không tan”. Ôi miền Nam vì sao mỗi lúc Mây chiều xa bay giục cánh chim Đêm khuya một tiếng bầu, tiếng trúc Một câu hò... cũng động trong tim? Và nỗi nhớ nặng sâu, da diết nhất trong thơ Tố Hữu vẫn là Huế - Huế của tuổi thơ, Huế của hiện tại: “Huế ơi, quê mẹ của ta ơi! - Nhớ tự ngày xưa tuổi chín mười - Mây núi hiu hiu, chiều lặng lặng - Mưa nguồn gió biển, nắng xa khơi” giờ đây chỉ còn trong nỗi nhớ, khiến tác giả phải thốt lên “Cay đắng bao nhiêu nỗi đoạn trường”, để cuối cùng, ông tự nguyện xin được làm người hành động: “Cho ta lại trở về quê cũ - Bờ sông Hương hay bến sông Bồ - Cùng các mẹ, các o, các chú - Giành lại từng mảnh đất thành đô”. Từ ước mơ và nguyện vọng được trở về quê mẹ, Tố Hữu đã thực sự đi vào chiến trường khu IV trong những năm chống Mỹ ác liệt. Vốn sống tiềm thức và thực tế đã giúp ông hình thành tập thơ Ra trận, mang đậm chất sử thi, hoành tráng. Và sau đó là tập Nước non ngàn dặm, Máu và hoa. Có thể nói rằng, với các tập thơ này, hành trình thơ Tố Hữu đã tái hiện bổ sung một cách sinh động diện mạo tinh thần và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con người Việt Nam yêu nước sáng rõ nhất. Đó là cuộc diễu binh hùng vĩ, là khúc ca chiến đấu uy nghiêm của toàn dân tộc, mà hình tượng tiêu biểu nhất là “anh giải phóng quân - con người đẹp nhất - Sống hiên ngang bất khuất trên đời - Như Thạch Sanh của thế kỷ XX”; “là cô dân quân - vai súng tay cày” chân lội bùn mà mơ hạ máy bay; là anh hùng Nguyễn Văn Trỗi - “Một con người như chân lý sinh ra”; là mẹ Suốt quyết tâm đánh giặc với tư thế hiên ngang, bất khuất. “Ngẩng đầu mái tóc mẹ rung - Gió lay như sóng biển tung trắng bờ”. Đó là khí thế của cả dân tộc hành quân, cả dân tộc cùng ra trận.Tố Hữu, qua Gió lộng đã chứng minh một lần nữa chân lý cuộc sống và chân lý nghệ thuật bao giờ cũng thống nhất hài hòa nếu người nghệ sĩ biết giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa thi ca và cuộc sống, giữa chủ thể sáng tạo và khách thể thẩm mỹ. Cuộc chiến tranh chia cắt 20 năm đã kết thúc vinh quang bằng đại thắng mùa xuân 1975 lịch sử. Hồn thơ Tố Hữu lại có dịp reo vui, hướng về những vấn đề trọng đại và nhân bản của đất nước và con người trong chiến tranh và trong hòa bình. Ông không nén được niềm vui dâng nghẹn: “Cho chúng con giữa vui này được khóc - Hôn mỗi đứa em, hôn mỗi mẹ già”; không nén được bàng hoàng trong buổi đoàn viên đầy lệ sau “Hai mươi chín năm dằng dặc xa quê - Nay mới được về thăm mừng tái tê”, nhìn đâu cũng Tổ quốc Việt Nam tươi đẹp: “Tôi lại nhìn như đôi mắt trẻ thơ - Tổ quốc tôi! Chưa đẹp thế bao giờ! - Xanh núi, xanh sông, xanh đồng, xanh biển - Xanh trời, xanh của những ước mơ”. Tác giả ngỡ ngàng khi đứng trước dòng Hương ngày thơ bé, tiếng thơ ông như một lời độc thoại với người thương. Hương Giang ơi! Dòng sông êm Qua tim ta vẫn ngày đêm tự tình Vẫn là duyên đó quê anh Gió mưa tan, lại trong lành mặt gương. Cuộc sống hòa bình, xây dựng sau 1975 đã đánh dấu một bước ngoặt chuyển mình trong quá trình sáng tác của các nhà văn, nhà thơ. Bước ngoặt ấy được xác định bởi ý thức của chủ thể sáng tạo trước những vấn đề mới mẻ của nhân sinh, thế sự. Tố Hữu cũng không nằm ngoài quy lụât đó. Cùng với Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Huy Cận..., Tố Hữu đã suy tư, trăn trở rất nhiều về thơ ca và cuộc đời. Tuổi càng cao, tâm sự của nhà thơ càng thêm thâm thuý và gấp gáp. Tập thơ Một tiếng đờn là những tổng kết và chiêm nghiệm của chính nhà thơ, sau đó, hướng về nhân thế bằng cái nhìn nhân hậu và giàu dự cảm, thủy chung và ân nghĩa: Ôi! Kiếp trăm năm được mấy ngày Trời xanh không gợn bóng mây bay Gian nan vẫn thủy chung bè bạn Êm ấm tình yêu mỗi phút giây. Giọng cao bao nhiêu năm, giờ tác giả thấy cần thiết phải chuyển sang giọng trầm - cái giọng trầm đủ để tâm tình và triết luận, để chia sẻ và tri âm. Tác giả có tỏ ra lo âu về chung quanh, về mình và về thơ, nhưng chủ yếu vẫn là tin yêu và hy vọng vào sự tốt đẹp của tương lai. Đó là điều không thể khác đối với bất kỳ nhà thơ lớn nào. Tố Hữu trước sau vẫn là một - không thể tách rời chân lý cách mạng mà cả cuộc đời và thơ ông đã tự nguyện tôn thờ: “Trăm năm duyên kiếp: Đảng và Thơ”. Đó chính là tinh tuý một đời người, đỉnh cao của một đời thơ: “Tròn năm mươi tuổi Đảng và thơ - Từ ấy hồn vui mãi đến giờ - Mái tóc pha sương chưa cạn ý - Con tằm rút ruột vẫn còn tơ”. Thơ Tố Hữu là thơ từ trái tim đến với trái tim, là tiếng nói “đồng ý, đồng chí, đồng tình”, là tiếng gọi kết đoàn, đồng thời cũng là thơ của trí tuệ tỉnh táo. Những phẩm chất tối ưu ấy được tích hợp trong toàn bộ thế giới nghệ thuật thơ Tố Hữu, qua thời gian sàng lọc, nó càng chứng tỏ sức sống mãnh liệt và hấp dẫn. Thơ Tố Hữu trở thành sức mạnh tinh thần của nhiều thế hệ con người Việt Nam hôm qua, hôm nay và mai sau. Ông là nhà thơ lớn của dân tộc, của Đảng; nhưng trước hết, ông là nhà thơ của quê hương, của Huế. Hồn thơ ông luôn hướng đến mọi người, hướng phía quê nhà, dù ông đã vĩnh viễn đi xa. Thơ và tình yêu trong thơ ông còn mãi. Phải đâu ông ra đi là vĩnh biệt cõi người. Trước khi tạm biệt cuộc đời vô cùng yêu quý, Tố Hữu vẫn gắng cầm bút để gửi lại những dòng thơ da diết cho cuộc đời, bằng hữu và nhân dân: Xin tạm biệt đời yêu quý nhất Còn mấy dòng thơ, một nắm tro Thơ gửi bạn đường, tro bón đất Sống là cho và chết cũng là cho Tố Hữu - mãi mãi cuộc sống thơ và thơ cuộc sống. H.T.H (262/12-10) |
PHẠM PHÚ PHONG
Trước khi đưa in, tôi có được đọc bản thảo tiểu thuyết Phía ấy là chân trời (1), và trong bài viết Đóng góp của văn xuôi Tô Nhuận Vỹ (tạp chí Văn Học số 2.1988) tôi có nói khá kỹ về tiểu thuyết nầy - coi đây là một thành công mới, một bước tiến trên chặng đường sáng tác của nhà văn, cần được khẳng định.
NGUYỄN THỊ NGỌC ÁNH
Đọc truyện ngắn Hồng Nhu, tôi có cảm tưởng như mình đang lạc vào trong một thế giới huyền thoại, thế giới của những lễ hội, phong tục, tập quán xưa huyền bí mà có thật của người dân đầm phá Tam Giang.
Bằng sự tinh tế và thâm trầm của người từng trải, Nguyễn Đình Tú đưa tới góc nhìn đa dạng về người trẻ trong tập truyện ngắn "Thế gian màu gì".
Qua đi, với những hoa tàn tạ
Hoa trong hồn ta, ai hái được bao giờ
Victor Hugo*
Nhà báo Phan Quang nghiên cứu, phân tích truyện dân gian để mang tới bức tranh văn hóa xứ Trung Đông trong cuốn "Nghìn lẻ một đêm và văn minh A Rập".
Những độc giả từng yêu thích Nắng và hoa, Thấy Phật, Khi tựa gối khi cúi đầu, Chuyện trò... - những tập sách đã có một góc riêng sang trọng trên kệ sách tản văn Việt bởi góc nhìn uyên thâm, giọng văn ảo diệu của GS Cao Huy Thuần - nay vừa có thêm một tặng phẩm mới: Sợi tơ nhện.
Y PHƯƠNG
Trong một lần đoàn nhà văn Việt Nam đi thực tế sáng tác ở Bình Liêu, Móng Cái (Quảng Ninh), tôi nghe mấy nữ nhà văn lao xao hỏi tiến sĩ - nhà văn Lê Thị Bích Hồng: “Đêm qua em viết à?” Bích Hồng ngạc nhiên: “Không đâu. Hôm qua đi đường mệt, em ngủ sớm đấy chứ”.
HOÀNG THỤY ANH
Mùa hè treo rũ
Trong cái hộp hai mươi mét vuông
Ngổn ngang màu
Ký tự chen chúc như bầy ngỗng mùa đông
Ngày lên dây hết cỡ
Chật
Dâng đầy lên ngực
Chuông nhà thờ chặt khúc thời gian
NGUYỄN TRỌNG TẠO
Lâu nay, đọc thơ của trẻ em, tôi thường có cảm giác, hình như các em làm thơ dưới ngọn roi giáo huấn mà người lớn thường giơ lên đe nẹt trẻ con. Cho nên khi cầm trong tay tập thơ Cái chuông vú của bé Hoàng Dạ Thi “làm” từ 3 đến 5 tuổi, tôi không khỏi ngạc nhiên.
NGHIÊM LƯƠNG THÀNH
Đọc xong Những đứa con rải rác trên đường, cuốn tiểu thuyết mới của nhà văn Hồ Anh Thái (Nxb. Trẻ 2014), thoạt đầu tôi có cảm giác trống vắng.
NGUYỄN ĐỨC TÙNG
Anh Cao Việt Dũng hỏi: anh có biết Lưu Quang Vũ không? Anh nghĩ gì về thơ Lưu Quang Vũ?
CHÂU THU HÀ
Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu tượng văn hóa của dân tộc Việt Nam. Tinh hoa và cốt cách của Người là nguồn cảm hứng vô tận cho văn nghệ sĩ, nhà báo.
DÃ LAN - NGUYỄN ĐỨC DỤ
Cách đây mấy năm, Nhà xuất bản Khoa học xã hội Hà Nội có cho phát hành cuốn TỪ ĐIỂN VĂN HỌC (1983 - 1984). Sách gồm hai tập: tập I và tập II đầy cả ngàn trang, với sự cộng tác của nhiều tác giả.
MAI VĂN HOAN
"Dư âm của biển" - theo tôi là cách gọi hợp nhất cho tập thơ mới này của Hải Bằng. Đặt "Trăng đợi trước thềm" chắc tác giả gửi gắm một điều gì đó mà tôi chưa hiểu được. Song với tôi "Trăng đợi trước thềm" có vẻ mơ mộng quá, tên gọi ấy chưa thể hiện được giai điệu cuộc đời của thơ anh.
PHẠM PHÚ PHONG
Nguyễn Hiến Lê (1912 - 1984), hiệu là Lộc Đình, người làng Phương Khê, phủ Quảng Oai, thị xã Sơn Tây, tỉnh Sơn Tây, nay thuộc thủ đô Hà Nội, là nhà văn, nhà nghiên cứu, biên soạn, khảo cứu, về nhiều lĩnh vực như văn học, triết học, sử học, ngôn ngữ học, đạo đức học, chính trị học, kinh tế học, giáo dục học, gương danh nhân…
Chuyện gì xảy ra trong ngày 30/4/1975 tại Sài Gòn? Nhiều người đã viết về sự kiện này. Một lần nữa, kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thái - nguyên Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn đã lên tiếng, cùng với sự trợ giúp của vợ và hai con - Nguyễn Hữu Thiên Nga và Nguyễn Hữu Thái Hòa.
Nhân dịp kỷ niệm 40 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia-Sự thật cho ra mắt bạn đọc một số đầu sách về sự kiện lịch sử này, về lịch sử kháng chiến Nam Bộ và về cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ của toàn dân Việt Nam.
LÊ HUỲNH LÂM
Không khỏi bất ngờ khi cầm trên tay tập “Hôm qua hôm nay & hôm sau” của Vũ Trọng Quang do Nxb Đà Nẵng ấn hành vào tháng 1 năm 2006. Vậy là đã 9 năm.
PHẠM XUÂN DŨNG
Tôi và nhiều bạn bè sinh viên còn nhớ nguyên vẹn cảm giác lần đầu nghe bài thơ “Đêm qua” của nhà thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường trong đêm cư xá Huế lạnh và buồn đến nao lòng tê tái.