Tình yêu dâng hiến trong thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường

15:18 19/10/2009
TRẦN ANH PHƯƠNGCầm trên tay tập thơ "Người hái phù dung" của Hoàng Phủ Ngọc Tường tôi như đọc với chính mình giữa đêm khuya lặng lẽ bên ngọn đèn. Cảm nhận đầu tiên về thơ anh không phải thơ để đọc giữa chốn đông người hay ở trong hội trường lớn, thơ anh chỉ đến với người đọc khi chỉ còn lại một mình đối diện với chính mình, tìm lại mình trong những con chữ lan toả như từng đợt sóng, xâm chiếm choáng ngợp lòng người...

Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường - Ảnh: ngominhblog.wordpress.com

"Bức thông điệp vỏ chai" (Paul Celan) mà tôi là người nhận, đang giải mã và bằng trực cảm tâm linh, tôi nhận ra gương mặt tình yêu trong thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường đẫm chất nhân văn cao cả, với anh tình yêu là giai điệu của bài ca dâng hiến. Thơ anh không trau chuốt gọt đẽo đến cầu kỳ mà hồn nhiên như hơi thở hay chính cuộc đời anh hoá thân làm câu chữ để thắp lên khát vọng cho sự vô biên tuyệt đích, khát vọng vĩnh cửu trong tình yêu. Qua một số bài "Kỷ niệm dành riêng cho hoa Violét", "Bên kia những ngày thường", "Cỏ, chim sẻ và châu chấu", "Lời ngu ngơ của một gã mù", "Xin người một chút không", "Nơi tôi gởi bóng", "Dù năm dù tháng" "Dạ khúc"... thể nghiệm hành trình tình yêu vẫn thầm lặng chảy miên man rong ruổi theo tháng ngày giữa hai bờ hư thực, một hành trình vô cùng vô tận, người đọc dường như bị lôi đi, bị bỏ bùa bởi sự đê mê dâng hiến ngập tràn bằng những rung động mang tính địa chấn.

Xâu chuỗi qua từng trang thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường với thủ pháp lặp từ đầy âm vang điệp khúc "cho ta", " cho em"”cho anh” vang lên gọi mời dâng hiến:

Em rót cho anh ly rượu đầy
Em cho anh một chiều thong thả.
Hay
Em có lời thề dâng hiến
Cho anh trọn một đời người
...

Phải chăng cảm quan tình yêu trong thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường là cho nhiều hơn nhận. Tình yêu với anh là cõi huyền nhiệm thánh thiện tâm linh, nó trong trẻo như pha lê và quý giá hơn hết thảy mọi thứ trên trần thế, tình yêu với khát vọng chân thiện mỹ. Trong bài "Dạ khúc" mở ra một không thời gian chiều hay giờ xẩm tối, là giờ thiêng, khi mà ngã thể con người cảm thấy bị giam hãm, trong khuôn khổ sinh tồn bất toàn và hữu tử, khi nó khát khao hoà mình trong hoàn vũ tự tồn, sẵn sàng hiến mình cho sự hư vô, tịch diệt vì những khả năng tái sinh mới, thì "em bất chợt" hiện về như thiên sứ, em đến mang theo mật mã của đời anh. Có thể nhận ra sự vi tế ấy qua giọng thơ gấp gáp với cảm xúc hổn hển rung lên hàng nghìn cung bậc trong trái tim kẻ đang yêu. Hạnh phúc mà em mang lại trong "chiều trần thế" dường như đã cứu rỗi thân phận anh trên cây thập giá đời.

Có chiều nào như chiều xưa
Anh về trên cát nóng
Đường dài vành môi khát bỏng
Em đến dịu dàng như một cơn mưa
Có buổi chiều nào như chiều qua
Lòng tràn đầy thương mến
Mang cả xuân thì em đến
Thắm nồng như một bông hoa
Có buổi chiều nào người bỏ vui chơi
Cho ta chiếc hôn nồng cháy
Nỗi đau bắt đầu từ đấy
Ngọn ngào như trái nho tươi.

Ở đây chỉ trong mười hai câu thơ, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã so sánh em là cơn mưa, là bông hoa, là trái nho tươi. Ôi! Em như huyền thoại cổ xưa về nước như là một nguyên tố khởi thuỷ, nơi vạn vật phát sinh và vạn vật phải trở về cho vũ trụ được cải tử hoàn sinh. Trong đoản khúc trữ tình này, Hoàng Phủ Ngọc Tường phả vào đó hơi thở của sự sống mà em là thiên sứ mang hạnh phúc về nơi trần thế trên đôi cánh thiên thần.

Nhưng đằng sau những xúc cảm tuôn trào của anh vẫn chìm sâu ẩn mật một sự chiêm cảm sâu sắc. Cái độc đáo nhất trong thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường viết về tình yêu là anh nhận ra gương mặt tình yêu, gọi tên nó và đưa đến một khái quát lớn, rằng tình yêu chỉ vĩnh hằng trong sự hiến dâng thánh thiện mà thôi. Vậy nên trong đam mê ngây ngất, chủ thể trữ tình đã nhận ra nỗi đau, một nỗi đau ngọt dịu "Nỗi đau bắt đầu từ đấy. Ngọt ngào như trái nho tươi". Và hơn thế nữa, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tìm thấy sự tương phản giữa "chiều xưa"“chiều nay”; bức thông điệp về thời gian, thời gian cay nghiệt nó cuốn đi tất cả vào trong lòng nó và em cũng có thể trôi theo quy luật của cuộc đời.

Có buổi chiều nào như chiều nay
Căn phòng anh bóng tối dâng đầy
Anh lặng thầm như cái bóng
Hoa tàn một mình mà em không hay.


Anh đã nhận diện nỗi đau trong tình yêu trong một chiều kích mới: đó là sự thay đổi tình yêu ngay trong bản ngã con người. Anh sợ sự lưỡng diện trong em, thiên đường hay địa ngục cũng từ đó. Câu thơ khép lại rưng rưng nỗi đau được thắp lên thật nhân ái bởi em đã đánh rơi mình, em ra đi mang theo cả hương hoa tàn lụi, hình ảnh "hoa tàn" ở cuối bài Dạ khúc như một sự đổ vỡ cho những ai có tâm hồn quá ư nhạy cảm vì khát vọng tuyệt đối trong tình yêu. Bằng linh cảm tiên nghiệm Hoàng Phủ Ngọc Tường nhận ra một cách sâu sắc rằng có tình yêu chưa đủ mà phải biết chăm lo vun xới nuôi dưỡng cho tình yêu ấy, nhân lên theo năm tháng cũng chẳng dễ gì. Bởi cuộc đời biết đâu đấy... ý niệm này đưa anh thể hiện trọn vẹn ở một bài thơ khác:

Chăm lo cánh đồng tình yêu
Anh đếm từng vầng trăng sáng
(Dù năm dù tháng)

Sự khái luận về tình yêu trong thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường ta cũng từng tìm thấy qua tập thơ "Người làm vườn" của hiền triết Ấn Độ Tago. Tago từng quan niệm tình yêu như mảnh vườn mà con người cần vun xới mới hái được hoa thơm quả ngọt. Phải chăng do Hoàng Phủ Ngọc Tường, trước đây, từng nhiều năm dạy triết phương Đông mà có sự tương đồng này chăng?

Cũng cần đề cập đến với đề cái tôi trong thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường, bởi không ở đâu thể hiện cái tôi rõ nét bằng tình yêu trong quan niệm cho và nhận. Trước đây trong thơ mới nhà thơ Thế Lữ, Lưu Trọng Lư... từng quay lưng với đời để tìm hạnh phúc nơi bồng lai, tiên cảnh hay trong ảo mộng. Riêng Hoàng Phủ Ngọc Tường có cảm quan mới về triết lý nhân sinh: anh đã tìm thấy hạnh phúc ngay trong trần thế do tình yêu mang lại với những ai biết vun xới và nâng niu nó. Chưa đâu hình tượng phụ nữ được tôn vinh, lên ngôi như trong thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường. Hình tượng phụ nữ trong thơ anh lung linh một vẻ đẹp Á đông huyền bí, họ chính là suối nguồn yêu thương, dâng hiến nụ hôn nồng nàn trên đôi môi trần thế.

Cho ta một chút yêu kiều
Chút sương áo mỏng, chút chiều tóc bay
Trăm năm còn có heo may
Mùa thu hồng nhạn còn đầy trong ta
...
Này em mắt biếc nhìn đời
Cho ta soi bóng làm người tương tri"

Hoàng Phủ Ngọc Tường tạo dáng câu thơ thành lời nói cá thể. Câu thơ có chủ ngữ nhân xưng "em" "anh" "ta"... biểu thị của lời nói chủ thể xác định.  Chất lãng mạn trong thơ anh luôn gắn với hiện thực thông qua cảm nhận về thế giới và con người một cách đặc thù. Ở đó, cái tôi trong thơ thể hiện khát vọng giải phóng cá tính, trả con người về bản chất tự nhiên. Thơ anh tạo không khí tâm tình cho thi sĩ thổ lộ, mở rộng với đời.

Điều tiên quyết về tình yêu trong thơ Hoàng phủ Ngọc Tường là phải có lòng tin và sự thuỷ chung. Bởi anh quan niệm tình yêu là nơi để soi bóng mình nhận diện mình. Nhân vật “anh" trong thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường xem tình yêu là nơi ký thác vận mệnh của đời mình, giá trị nhân phẩm con người được biểu hiện trên gương mặt tình yêu của họ. Hoàng Phủ Ngọc Tường đem tấm gương tình yêu để soi rõ bóng dáng cuộc đời trong mỗi con người, tình yêu cứu rỗi nhân loại:

Giữ hoài cho màu nước
Sáng trong như lòng tin
Đừng để thấy trong em
Gương mặt tôi tan vỡ.

(Nơi tôi gửi bóng)

hay
Đọc trên môi em
Sức nóng của màu hoa phượng đốt cháy thành phố
...
Vâng, trên môi em,
Ta đọc lại ngọn lửa của nhân loại đã tắt ngấm
(Lời ngu ngơ của một gã mù chữ)

Hoàng Phủ Ngọc Tường tìm thấy nguồn cảm hứng bất tận trong sự không chỉ lý tưởng hóa mà còn thần thánh hóa người yêu. Tình yêu trong thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường xuất hiện như một tình cảm hồn nhiên, tươi sáng, làm đẹp cuộc sống con người, cất bổng nó lên khỏi thực tại đời thường ô trọc. Bởi thế, nhân vật trữ tình "anh" trong thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường có chiều kích mang tầm vũ trụ. Anh cũng dâng hiến đời mình bằng tất cả hành động mãnh liệt nhất, trãi qua những vật vả, nguy khó để tìm đến với em. Bằng hình ảnh ước lệ, tượng trưng, kỳ vĩ.

Bên kia những ngày thường
Có anh bơi tìm em qua những dòng sông
(Bên kia những ngày thường)

hay trong bài "Mùa xuân anh trở lại". Nhân vật anh cũng thiết tha dâng hiến, đi theo tiếng gọi vĩnh cửu của tình yêu không đắn đo suy tính tình yêu như là sự may mắn mà anh có được.
Anh yêu em rộng mãi những chân trời
Và mới mẻ như ngày đầu anh đến
Với hương lạ sóng cồn cửa biển
Chim phượng hoàng gọi nắng rừng xa

Thời gian cuốn trôi tất cả, thời gian vừa tái sinh vừa huỷ diệt. Dấu ấn thời gian trong bài "Dù năm dù tháng" là thời gian vĩnh cửu; tình yêu vận hành theo quy luật riêng không tuân theo logic đời thường; thời gian theo nhịp đập của trái tim mà trái tim lại mang trong mình nó sự vĩnh cửu, năm tháng không hề lay chuyển nổi. Sự dâng hiến của tình yêu là bất tận, mang giá trị vĩnh hằng. Nó rất gần với câu danh ngôn "Thời gian dập tắt tình yêu nhỏ, thổi bùng tình yêu lớn". Như thế, con người đã tìm thấy sự tồn tại của mình có ý nghĩa vĩnh hằng trong tình yêu và cám ơn tình yêu đã giúp con người chiến thắng sự hạn hữu, thân phận bé mọn của mình trong dòng vô thuy, vô chung.

Dù năm dù tháng em ơi
Tim anh chỉ đập một đời
Nhưng trái tim mang vĩnh cửu
Trong từng hạt máu đỏ tươi.

Với Hoàng phủ Ngọc Tường, tình yêu là vô giá, luôn được tôn vinh kể cả sự hy sinh cho tình yêu cũng là niềm hạnh phúc vô bờ bến. Thơ của anh phải đọc trong lúc bình tâm, thanh thản. Nó hiện lên những bức tranh về những khoảnh khắc của tâm trạng, của tình yêu và của những ước muốn suy tư. Vẫn biết rằng Hoàng phủ Ngọc Tường viết thành công trên nhiều thể loại, nổi tiếng nhất là ký, nhàn đàm... Tuy nhiên trên lĩnh vực thơ ca lại là nơi hành hương trở về lớn nhất của anh - trở về bản thể thi sĩ của chính mình. Thơ anh thánh thiện, toát lên ánh sáng ngọc trai ngậm bằng nỗi đau lắng lại sau bao cơn sóng vất vả của biển đời để khái quát nên triết lý cho tình yêu: hạnh phúc con người có được trong tình yêu chỉ thật sự bắt nguồn khi con người biết hy sinh dâng hiến cho nhau, tình yêu sẽ chiến thắng sự hữu hạn của kiếp người, đưa thiên đường về nơi trần thế.

Trong hành trình thơ hôm nay, bên cạnh những cây bút đa giọng điệu, khá thành công về mặt thi pháp. Thơ Hoàng phủ Ngọc Tường vẫn có điệu thức riêng. Nó diễn đạt rất kín đáo nỗi khắc khoải siêu hình của tâm hồn con người trong tình yêu, nó chỉ khêu gợi nhưng ám thị; nó mời gọi người đọc tự hoàn thành thông điệp của tác phẩm nghệ thuật trong tâm tưởng của mình. Cái duyên sức mê dụ hấp dẫn thẩm mỹ đặc thù qua nhiều bài thơ của Hoàng phủ Ngọc Tường là ở chỗ ấy. Trong đời người làm thơ chỉ để lại trong lòng người đọc một bài, một câu thơ đã là quý hóa. Riêng Hoàng phủ Ngọc Tường dù anh không muốn thành thi sĩ, thế nhưng những bài thơ của anh luôn được kết hợp với âm nhạc của Phú Quang như chắp thêm đôi cánh cho thơ ca thăng hoa và đến được với mọi người trong trạng thái xuất thần. Mặc dù thưởng thức và chiêm ngưỡng thơ là tuỳ ở con mắt đa tình và cái gout thẩm mỹ của từng người. Nhưng có lẽ nào những lời thơ tình nồng nàn dâng hiến đắm say đến thế lại không làm cho ta sống và yêu giữa cuộc đời tươi đẹp này. Như vậy Hoàng phủ Ngọc Tường đã vươn đến cái đích cao cả của nghệ thuật rồi vậy.

T.A.P
(190/12-04)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.

  • MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.

  • ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc                                  Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.

  • TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.

  • MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.

  • TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.

  • HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNG                 Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.

  • ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.

  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!

  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.