Tính trung thực của nhà khoa học

14:54 18/06/2009
TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

Đó là cảm nhận của tôi khi theo dõi cuộc tranh luận của các nhà khoa học xoay quanh chuyện "cao trình của cảng Chân Mây" và chuyện "biên soạn" hay "biên dịch" hay là "dịch" bản Tiêu chuẩn ngành. Tải trọng và tác động (do sóng và do tàu) lên công trình thuỷ. Tiêu chuẩn thiết kế (22-TCN222-95), do "Công ty Khảo sát thiết kế GTVT" biên soạn, được Bộ trưởng Bộ GTVT quyết định ban hành trong quyết định ngày 24-7-1995 do Thứ trưởng Bộ GTVT GS-TS Lã Ngọc Khuê ký thay bộ trưởng.

Đã là "cảm nhận" thì cũng có thể đúng có thể sai, do vậy tôi cứ trình bày đôi điều về cảm nhận đó để mong nhận được sự thẩm bình của quý độc giả theo dõi câu chuyện đang được đăng tải trên khá nhiều bài báo "Nhà Quản Lý". Lao Động, Đời Sống và Pháp Luật, Pháp Luật TPHCM, Quân Đội Nhân Dân, Người Lao Động... mà tôi đã tìm đọc.

Trong chuyện "tải trọng và tác động do sóng và do tàu", rồi chuyện "giao mùa cao trình của bến cảng cần phải tính hay không tính đến ba hiện tượng tự nhiên: nước dâng, mực nước giao mùa và sóng"... thì tôi là kẻ ngoại đạo. Tôi phải tự nhủ mình, "biết thì thưa thốt, không biết thì..." phải đọc của người khác am hiểu về lĩnh vực này đã phát biểu trên báo. Đọc đi đọc lại, trong đầu lại cứ loay hoay với một câu mà nghề nghiệp của tôi buộc tôi phải nhớ: "Nền văn minh, đó là những con đường, những cảng và những bến cảng", đó là một câu nói súc tích pha chút dí dỏm mang ý vị triết lý của Charle Seignobos được nhắc đến trong Tìm hiểu các nền văn minh của Fernand Braudel. Ngẫm cho kỹ thì quả có thế thật. Dấu ấn của nền văn minh được ghi đậm trên những thành tựu vật chất trường tồn cùng năm tháng.

Nhưng để trường tồn được thì những người thiết kế và thi công "những con đường và những cảng và bến cảng" đó phải ghi dấu ấn của mình, chí ít cũng là tên của mình vào những công trình đó để cho nhỡ ra "phố bỗng thành dòng sông uốn quanh" (mà người ta hài hước nói rằng dân đô thị ta phải làm quen với việc "chung sống với lũ trong mùa mưa") thì người đời còn biết mà réo tên họ. Cảng và bến cảng cũng vậy. Tôi đã từng đến cảng Phú Quý ở Phan Thiết trong một dịp công tác năm nào, năm ngoái trở lại không thấy cảng đâu cả, réo tên ai đây? Dạo tháng 5 vừa rồi, tôi ra Côn Đảo trong một chuyến khảo sát, đứng ở cầu tàu Côn Đảo đã bị sóng đánh sập từng mảng lớn giờ đây đang ngổn ngang những tấm đúc bê tông mà người ta đang cố vá víu cho nơi địa danh lịch sử này, biết réo gọi tên ai, tôi lại nghĩ về câu nói về nền văn minh kia!

Cho hay, một nền văn minh cần xây dựng trước hết ở lòng trung thực của những người thiết kế ra nó, đương nhiên cả người thi công nữa, chứ không chúng hùa nhau "rút ruột" nền văn minh như rút ruột các công trình mà Thủ tướng của ta đã phát biểu tại hội nghị thanh tra toàn quốc vừa qua: "Hầu như công trình xây dựng nào khi tiến hành thanh tra cũng phát hiện sai phạm, thanh tra sờ đâu là thấy sai đó". Chao ơi, tôi bỗng nhớ đến câu thơ ngao ngán của các cụ thời Đông Kinh Nghĩa thục: "Văn minh là thế giới nào, mà ta chìm đắm...".

Không chỉ một cái cảng sẽ "chìm đắm" theo nghĩa đen trần trụi, điều ấy thì xin cứ tin vào lời ông Trưởng Ban Quản lý KCN Dung Quất đã đoán chắc "chịu trách nhiệm", hãy cứ bình tâm, "Sự thực sẽ chứng minh bằng công trình" (Báo Lao Động 26-9-2003), chúng ta đã có tên tuổi cụ thể để có thể réo gọi, nói bỏ quá cho, nhỡ công trình "có mệnh hệ" nào. Mà rồi nếu nhỡ ra nhiều công trình đều không may "có mệnh hệ" thì đã có tên tuổi của một quan chức đóng dấu ký tên hẳn hoi để xác nhận rằng "phương pháp tính toán này đã được áp dụng cho tất cả các cảng biển Việt Nam, các cảng đó đã được đưa vào khai thác an toàn cho đến nay. Sự khẳng định này đồng nghĩa với việc cho phép tính cao trình đỉnh bến cảng biển Việt Nam mà không cần tính đến cao độ nước dâng và cao độ sóng" (Công văn của Bộ Giao thông Vận tải ngày 3-4-2003). Liệu điều này có đặt các cảng biển Việt Nam trong sự uy hiếp của mùa bão lũ, sẽ bị nước dâng, triều cường và sóng đánh sập hay không thì xin hãy chờ, đừng vội kết luận. Một nền văn minh sẽ có chiều kích dài rộng lắm, sẽ có những bia đá tưởng niệm một nền văn minh, mà bia đá có mòn thì "ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ", vội gì!

Thế còn chuyện biên soạn, biên dịch và dịch thì hãy mở từ điển ra mà tra cứu. Dễ ợt! Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh định nghĩa biên dịch là "biên tập và phiên dịch"; biên soạn là "sưu tập tài liệu biên thành bài, thành sách"; còn dịch là "đem thứ chữ này diễn sang thứ chữ khác". Từ điển của Viện Ngôn ngữ 1988 thì định nghĩa biên dịch nghĩa là "biên soạn hoặc dịch sách (nói khái quát); biên soạn là "thu thập, chọn lọc tài liệu và viết thành bài, sách"; và dịch là "làm cho một nội dung diễn đạt bằng ngôn ngữ hoặc nói chung hệ thống tín hiệu này được diễn đạt bằng ngôn ngữ hoặc hệ thống tín hiệu khác". Tôi có nhờ tiến sĩ Bùi Quốc Nghĩa rà soát từng chữ, từng câu, từng trang của công trình "Tải trọng và tác động..." bằng tiếng Việt với "nguyên bản tiếng Nga" của 19 viện khoa học của Liên Xô (cũ) là tác giả, thì thấy rằng trong trường hợp này nói dịch là thoả đáng và chính xác nhất. Còn nói là biên soạn hay biên dịch thì e có phần khiên cưỡng và khí bất tiện, cho dù có chuyện "dùng hệ tiêu chuẩn của Liên Xô trước đây làm cơ sở biên soạn tiêu chuẩn này là việc thường làm trong xây dựng tiêu chuẩn ở nước ta".

Mặc dầu đã mất công tra từ điển, tôi vẫn thiếu tự tin về một lĩnh vực mà mình không am hiểu, để chắc ăn, tôi điện hỏi bạn tôi, anh Cao Xuân Hạo, nhà ngôn ngữ và một nhà phiên dịch có uy tín. Anh Hạo cười khà khà trong máy nói "chuyện ấy mà ông còn phải hỏi cơ à. Tôi không biết ông định làm gì, chỉ nhắc ông rằng, dịch, biên soạn, hay biên dịch (mà thật ra tôi nghĩ rằng hình như từ biên dịch này đúng ra phải là phỏng dịch) thì yêu cầu tối thiểu có tính nguyên tắc là phải ghi tên tác phẩm và tác giả mà mình dịch hoặc dùng tác phẩm của họ để biên dịch (phỏng dịch thì đúng hơn) hay là biên soạn, nếu không làm như thế thì tức là đạo văn, nói chữ nghĩa cho oai, thật ra là ăn cắp! Mà này, ông hãy mở tờ Văn Nghệ số mới ra vừa rồi, đọc bài ở trang 14 "Đạo văn, Đạo danh bất kể mọi nơi - Trần Trung Thực chẳng làm sao được", tôi khỏi nói dài mất thì giờ của ông"!

Tôi vội đọc, và cứ lẩn thẩn suy ngẫm mãi dòng chữ: "Hết lần này đến lần khác phải chịu đắng cay vì nạn đạo bài đạo danh... những cuốn sách đạo bản cũng đạo luôn cả danh nhà xuất bản, vì mạo giả tất cả nên không có cách nào, đầu mối nào để điều tra ra, và cũng vì thế nên bọn đạo tặc vẫn ung dung vô lo...". Cũng may, đây là chuyện xảy ra ở bên Tàu, và ông Trần Trung Thực là một nhà văn Trung Quốc nổi tiếng. Ở ta khác, ở ta muốn "đạo" cũng khó,vì chẳng là chúng ta có hẳn những "hội đồng nghiệm thu nhà nước...", ở đấy toàn những vị chức sắc có uy tín, có tâm huyết, có lương tâm, những phường đạo tặc làm sao mà "ung dung, vô lo" được.

Nhưng rồi tôi chợt nhớ một khuyến cáo của nhà văn hoá Phạm Văn Đồng mà Phan Đình Diệu ghi lại trong bài viết tưởng niệm ông: "Bây giờ trung thực phải đặt lên trước vì là cái thiếu nhất (*). Đúng vậy thay!

T.L
(177/11-03)

----------------------
 (*): "Phạm Văn Đồng trong lòng nhân dân...", NXB - CTQG, Hà Nội 2002, tr.693.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÝ VIỆT DŨNGThiền tông, nhờ lịch sử lâu dài, với những Thiền ngữ tinh diệu kỳ đặc cùng truyền thuyết sinh động, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Á đông xưa và thấm nhuần văn hóa Tây phương ngày nay nên đã cấu thành một thế giới Thiền thâm thúy, to rộng.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Theo tôi, cho đến nay, chúng ta chưa có những đánh giá xác đáng về hiện tượng Xuân Thu nhã tập: Cả trên phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn sáng tác. Có phải là nguyên do, nhóm này đã bị khoanh vào hai chữ “BÍ HIỂM”?

  • PHI HÙNGĐỗ Lai Thuý đã từng nói ở đâu đó rằng, anh đến với phê bình (bài in đầu tiên 1986) như một con trâu chậm (hẳn sinh năm Kỷ Sửu?).Vậy mà đến nay (2002), anh đã có 4 đầu sách: Con mắt thơ (Phê bình phong cách thơ mới, 1992, 1994, 1998, 2000 - đổi tên Mắt thơ), Hồ Xuân Hương - hoài niệm phồn thực (Nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương từ tín ngưỡng phồn thực, 1999), Từ cái nhìn văn hoá (Tập tiểu luận, 2000), Chân trời có người bay (Chân dung các nhà nghiên cứu, 2002), ngoài ra còn một số sách biên soạn, giới thiệu, biên dịch...

  • TRẦN ĐỨC ANH SƠNCuối tuần rảnh rỗi, tôi rủ mấy người bạn về nhà làm một độ nhậu cuối tuần. Rượu vào lời ra, mọi người say sưa bàn đủ mọi chuyện trên đời, đặc biệt là những vấn đề thời sự nóng bỏng như: sự sa sút của giáo dục; nạn “học giả bằng thật”; nạn tham nhũng...

  • HỒ VIẾT TƯSau buổi bình thơ của liên lớp cuối cấp III Trường Bổ túc công nông Bình Trị Thiên, dưới sự hướng dẫn của thầy Trần Văn Châu dạy văn, hồi đó (1980) thầy mượn được máy thu băng, có giọng ngâm của các nghệ sĩ là oai và khí thế lắm. Khi bình bài Giải đi sớm.

  • PHAN TRỌNG THƯỞNGLTS: Trong hai ngày 02 và 03 tháng 3 năm 2006, tại thủ đô Hà Nội đã diễn ra Hội nghị lý luận – phê bình văn học nghệ thuật toàn quốc. Trên 150 nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình đã tham dự và trình bày các tham luận có giá trị; đề xuất nhiều vấn đề quan trọng, thiết thực của đời sống lý luận, phê bình văn học nghệ thuật hiện đại ở nước ta, trong đối sánh với những thành tựu của lý luận – phê bình văn học nghệ thuật thế giới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Con người không có thơ thì chỉ là một cái máy bằng xương thịt. Thế giới không có thơ thì chỉ là một cái nhà hoang. Octavio Paz cho rằng: “Nếu thiếu thơ thì đến cả nói năng cũng trở nên ú ớ”.

  • PHẠM PHÚ PHONGTri thức được coi thực sự là tri thức khi đó là kết quả của sự suy nghĩ tìm tòi, chứ không phải là trí nhớ.                       L.Tonstoi

  • TRẦN THANH HÀTrong giới học thuật, Trương Đăng Dung được biết đến như một người làm lý luận thuần tuý. Bằng lao động âm thầm, cần mẫn Trương Đăng Dung đã đóng góp cho nền lý luận văn học hiện đại Việt đổi mới và bắt kịp nền lý luận văn học trên thế giới.

  • PHẠM XUÂN PHỤNG Chu Dịch có 64 quẻ, mỗi quẻ có 6 hào. Riêng hai quẻ Bát Thuần Càn và Bát Thuần Khôn, mỗi quẻ có thêm một hào.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNPhan Đăng Dư, thân phụ nhà cách mạng Phan Đăng Lưu là người họ Mạc, gốc Hải Dương. Đời Mạc Mậu Giang, con vua Mạc Phúc Nguyên lánh nạn vào Tràng Thành (nay là Hoa Thành, Yên Thành, Nghệ An) sinh cơ lập nghiệp ở đó, Phan Đăng Dư là hậu duệ đời thứ 14.

  • HỒ THẾ HÀLTS: Văn học Việt về đề tài chiến tranh là chủ đề của cuộc Toạ đàm văn học do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế tổ chức ngày 20 tháng 12 năm 2005. Tuy tự giới hạn ở tính chất và phạm vi hẹp, nhưng Toạ đàm đã thu hút đông đảo giới văn nghệ sĩ, nhà giáo, trí thức ở Huế tham gia, đặc biệt là những nhà văn từng mặc áo lính ở chiến trường. Gần 20 tham luận gửi đến và hơn 10 ý kiến thảo luận, phát biểu trực tiếp ở Toạ đàm đã làm cho không khí học thuật và những vấn đề thực tiễn của sáng tạo văn học về đề tài chiến tranh trở nên cấp thiết và có ý nghĩa. Sông Hương trân trọng giới thiệu bài Tổng lược và 02 bài Tham luận đã trình bày ở cuộc Toạ đàm.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Tại diễn đàn Nobel năm 2005, Harold Pinter đã dành gần trọn bài viết của mình cho vấn đề chiến tranh. Ông cho rằng, nghĩa vụ hàng đầu của một nghệ sĩ chân chính là góp phần làm rõ sự thật về chiến tranh: “Cái nghĩa vụ công dân cốt yếu nhất mà tất cả chúng ta đều phải thi hành là... quyết tâm dũng mãnh để xác định cho được sự thật thực tại...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG"HỘI CHỨNG VIỆT NAM"Trong lịch sử chiến tranh Mỹ, thì chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh mà người Mỹ bị sa lầy lâu nhất (1954-1975), và đã để lại những hậu quả nặng nề cho nước Mỹ. Hậu quả đó không chỉ là sự thất bại trong cuộc chiến, mà còn ở những di chứng kéo dài làm ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống Mỹ, mà người Mỹ gọi đó là "Hội chứng Việt Nam".

  • BÍCH THUNăm 2005, GS. Phong Lê vinh dự nhận giải thưởng Nhà nước về Khoa học với cụm công trình: Văn học Việt Nam hiện đại - những chân dung tiêu biểu (Nxb ĐHQG, H, 2001, 540 trang); Một số gương mặt văn chương - học thuật Việt hiện đại (Nxb GD, H, 2001, 450 trang); Văn học Việt hiện đại - lịch sử và lý luận (Nxb KHXH. H, 2003, 780 trang). Đây là kết quả của một quá trình nghiên cứu khoa học say mê, tâm huyết và cũng đầy khổ công, vất vả của một người sống tận tụy với nghề.

  • THÁI DOÃN HIỂU Trong hôn nhân, đàn bà lấy chồng là để vào đời, còn đàn ông cưới vợ là để thoát ra khỏi cuộc đời. Hôn nhân tốt đẹp tạo nên hạnh phúc thiên đường, còn hôn nhân trắc trở, đổ vỡ, gia đình thành bãi chiến trường. Tình yêu chân chính thanh hóa những tâm hồn hư hỏng và tình yêu xấu làm hư hỏng những linh hồn trinh trắng.

  • NGUYỄN THỊ MỸ LỘCLà người biết yêu và có chút văn hóa không ai không biết Romeo and Juliet của Shakespeare, vở kịch được sáng tác cách ngày nay vừa tròn 410 năm (1595 - 2005). Ngót bốn thế kỷ nay Romeo and Juliet được coi là biểu tượng của tình yêu. Ý nghĩa xã hội của tác phẩm đã được thừa nhận, giá trị thẩm mĩ đã được khám phá, hiệu ứng bi kịch đã được nghiền ngẫm... Liệu còn có gì để khám phá?

  • NGUYỄN VĂN HẠNH1. Từ nhiều năm nay, và bây giờ cũng vậy, chúng ta chủ trương xây dựng một nền văn nghệ mới ngang tầm thời đại, xứng đáng với tài năng của dân tộc, của đất nước.

  • HỒ THẾ HÀ(Tham luận đọc tại Hội thảo Tạp chí văn nghệ 6 tỉnh Bắc miền Trung)