Tín ngưỡng thờ thần núi Hải Vân

09:55 11/12/2020

MAI VĂN ĐƯỢC - NGUYỄN HUỲNH BẢO NGỌC

Thần núi Hải Vân là một nhiên thần, được thờ cúng tại miếu Trấn Sơn (đền thần Hải Vân), nằm dưới chân núi Hải Vân. Ở làng An Cư Đông (thị trấn Lăng Cô, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế) hiện nay vẫn còn lưu giữ các di sản liên quan đến việc thờ cúng vị thần này.

Miếu Trấn Sơn (đền thần Hải Vân)

1. Núi Hải Vân cao gần 500m, chạy ăn lan ra sát biển. Hải Vân vừa là một thắng cảnh vừa có vị trí chiến lược quan trọng về quân sự. Ngọn núi này được Ô châu cận lục chép như sau: “Núi Hải Vân ở huyện Tư Vinh, có cửa ải Hải Vân, bên dưới sát bờ biển, bên trên dựng thấu tầng mây. Núi phân chia đường Nam Bắc, mây đưa đón khách vãng lai, vách đá cao ngất, là ranh giới giữa Thuận Hóa và Quảng Nam. Từ địa phận Thuận Hóa men đường mà đi ước hơn một ngày mới tới địa phận Quảng Nam. Đúng là nơi xung yếu của hai đạo, nên đã có quan ải để phòng bị”1. Chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 - 1724) khi đi tuần ở Quảng Nam, qua núi Hải Vân có ngự đề bài thơ rằng:

Việt Nam hiểm ải thử sơn điên,
Hình thế hồn như Thục đạo thiên,
Đãn kiếm vân hoành tam tuấn lãnh,
Bất tri nhân lại kỉ trùng niên.

Tạm dịch:

Việt Nam hiểm nhất đỉnh này thôi,
Hình thế như đường Thục cao vời,
Chỉ thấy mây giăng ba đỉnh núi,
Không hay mình ở chín tầng mây2.

Khi Triều Nguyễn được lập nên và Huế được chọn làm kinh đô của cả nước, Hải Vân trở thành cửa ngõ quan trọng bậc nhất ở phía Nam của kinh đô Huế. Chính vì vậy, nhiều công trình được xây dựng ở ngọn núi này, như đặt cửa ải, đặt lính canh giữ… Năm Minh Mạng thứ 7 (1826), cho xây dựng cửa quan Hải Vân. Ban đầu đặt một viên Phòng thủ úy và biền binh thường trú, mỗi tháng một lần thay đổi. Năm 1836, tăng lên hai viên Phòng thủ úy, mỗi tháng một lần thay đổi, còn biền binh thì 15 ngày một lần thay đổi. Lại cấp cho ống nhòm thiên lí để quan sát ngoài biển, hễ có thấy ghe thuyền ngoại quốc vào đậu ở vũng biển Đà Nẵng, thì trên cửa quan phải báo cáo trước. Vua Minh Mạng cho khắc hình cửa quan Hải Vân lên Dụ đỉnh3. Không những chú trọng về vấn đề quân sự, Triều Nguyễn còn chú trọng đến vấn đề tín ngưỡng. Bởi lẽ, núi Hải Vân được coi là nỗi khiếp sợ của người đi đường khi phải đi qua nơi này. Đường núi Hải Vân cheo leo, hiểm trở, có nhiều thú dữ, đường thủy lại có sóng thần, ghe thuyền đi qua hay bị chìm đắm, nên có câu ca dao: “Đi bộ thì khiếp Hải Vân/ Đi thuyền thì khiếp sóng thần hang Dơi4”.

Để an dân, dưới thời Minh Mạng (1820 - 1840), Triều Nguyễn cho xây dựng đền thờ thần núi Hải Vân. Việc này được chép trong Đại Nam nhất thống chí như sau: “Đền thần Hải Vân: Ở ấp An Cư, thờ thần núi Hải Vân, dựng năm Minh Mạng”5. Trong chuyến điền dã vào tháng 2/2020, được sự giúp đỡ của các bác trong Ban điều hành làng An Cư Đông (thị trấn Lăng Cô, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế) chúng tôi đã tìm ra ngôi đền này. Đền thờ thần núi Hải Vân nằm dưới chân núi Hải Vân, ở bờ Nam sông An Cư (một khúc sông ngắn chảy từ đầm An Cư ra cửa biển Hải Vân). Đền được người dân ở làng An Cư Đông gọi là miếu Trấn Sơn, mặt quay về hướng Bắc, được xây bằng gạch vồ, đá, trát vôi, bên trong chia làm ba gian, phía trước có bình phong. Bên trái ngôi đền còn có một miếu nhỏ. Ngôi đền này trải qua quá trình lịch sử lâu năm, chiến tranh tàn phá nên bị xuống cấp. Do đó, đền được nhiều lần trùng tu. Đợt trùng tu gần đây nhất là vào năm 2012 - 2013.

Triều Nguyễn còn ban tặng sắc phong cho thần núi Hải Vân. Hiện nay, tại đình làng An Cư Đông đang lưu giữ ba sắc phong do Triều Nguyễn ban tặng cho thần núi Hải Vân, hai sắc phong thời Thiệu Trị và một sắc phong thời Tự Đức. Sắc phong được làm từ chất liệu giấy long đằng, chữ viết chân phương. Do trải qua chiến tranh và việc bảo quản chưa được tốt nên ba sắc phong này bị hư hỏng rất nhiều. Tuy nhiên, nội dung được viết trên sắc phong phần lớn đều còn đọc được, chỉ bị mất một số chữ; một số khác bị rách nhưng vẫn có thể ghép các mảnh lại với nhau. Dưới dây là nội dung của ba sắc phong này6.

- Sắc phong thần núi Hải Vân ban ngày mồng chỉ tháng 8 năm Thiệu Trị thứ 2 (1842)

Nguyên văn:

敕海雲山神護國庇民稔著靈應明命貳拾壹年値我聖祖仁皇帝五旬大慶節欽奉寶詔覃恩禮隆登秩肆今丕膺耿命緬念神庥可加贈雄峙静鎮海雲山神神其相佑保我邦家

欽哉

紹治貳年捌月初柒日

Phiên âm:

Sắc: Hải Vân sơn thần hộ quốc tí dân, nẫm trứ linh ứng. Minh Mạng nhị thập nhất niên, trị ngã Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế Ngũ Tuần Đại Khánh tiết, khâm phụng bảo chiếu đàm ân, lễ long đăng trật. Tứ kim phi ưng cảnh mệnh, miến niệm thần hưu, khả gia tặng Hùng Trì Tĩnh Trấn Hải Vân sơn thần. Thần kì tương hựu, bảo ngã bang gia. Khâm tai!

Thiệu Trị nhị niên bát nguyệt sơ thất nhật.

Dịch nghĩa:

Sắc cho: thần núi Hải Vân, giữ nước giúp dân, linh ứng rõ rệt đã lâu. Năm Minh Mạng thứ 21 (1840), gặp đúng vào dịp lễ Ngũ Tuần Đại Khánh của Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế7 ta, kính vâng bảo chiếu ra ân rộng rãi, lễ lớn nên gia tăng cấp bậc. Đến nay, Trẫm nhận mệnh lớn, nghĩ đến công ơn của thần, nên tặng thêm: Hùng Trì Tĩnh Trấn Hải Vân sơn thần. Thần hãy che chở, bảo vệ cho đất nước ta. Kính đấy!

Ngày mồng 7 tháng 8 năm Thiệu Trị thứ 2 (1842).

- Sắc phong thần núi Hải Vân ban ngày mồng 9 tháng 9 năm Thiệu Trị thứ 2 (1842)

Nguyên văn:

敕雄峙静鎭海雲山神護國庇民稔著靈應節經蒙給贈敕準許奉事肆今丕膺耿命緬念神庥可加贈雄峙静鎭敦厚海雲山神神其相佑保我邦家

欽哉

紹治貳年玖月初玖日

Phiên âm:

Sắc: Hùng Trì Tĩnh Trấn Hải Vân sơn thần hộ quốc tí dân, nẫm trứ linh ứng, tiết kinh mông cấp tặng sắc, chuẩn hứa phụng sự. Tứ kim phi ưng cảnh mệnh, miến niệm thần hưu, khả gia tặng Hùng Trì Tĩnh Trấn Đôn Hậu Hải Vân sơn thần. Thần kì tương hựu, bảo ngã bang gia. Khâm tai!

Thiệu Trị nhị niên cửu nguyệt sơ cửu nhật.

Dịch nghĩa:

Sắc cho: Hùng Trì Tĩnh Trấn Hải Vân sơn thần, giữ nước giúp dân, linh ứng rõ rệt đã lâu, từng được ban tặng sắc, chuẩn cho thờ phụng. Đến nay, Trẫm nhận mệnh lớn, nghĩ đến công ơn của thần, nên tặng thêm: Hùng Trì Tĩnh Trấn Đôn Hậu Hải Vân sơn thần. Thần hãy che chở, bảo vệ cho đất nước ta. Kính đấy!

Ngày mồng 9 tháng 9 năm Thiệu Trị thứ 2 (1842).

- Sắc phong thần núi Hải Vân ban ngày mồng 3 tháng 7 năm Tự Đức thứ 3 (1850)

Nguyên văn:

敕海雲山神原贈雄峙静鎭敦厚中等神護國庇民稔著靈應從前建有耑祠節蒙頒給[…]敕準許奉事肆今丕膺耿命緬念神庥[…]加贈雄峙静鎭敦厚聳拔中等神神其相佑保我黎民

欽哉

嗣德叁年柒月初叁日

Phiên âm:

Sắc: Hải Vân sơn thần nguyên tặng Hùng Trì Tĩnh Trấn Đôn Hậu Trung đẳng thần, hộ quốc tí dân, nẫm trứ linh ứng. Tòng tiền kiến hữu nhi từ, tiết mông ban cấp [tặng] sắc, chuẩn hứa phụng sự. Tứ kim phi ưng cảnh mệnh, miến niệm thần hưu, [khả] gia tặng Hùng Trì Tĩnh Trấn Đôn Hậu Tủng Bạt Trung đẳng thần. Thần kì tương hựu, bảo ngã lê dân.

Khâm tai!

Tự Đức tam niên thất nguyệt sơ tam nhật.

Dịch nghĩa:

Sắc cho: thần núi Hải Vân, vốn được tặng là Hùng Trì Tĩnh Trấn Đôn Hậu Trung đẳng thần, giữ nước giúp dân, linh ứng rõ rệt đã lâu. Trước đây có dựng miếu thờ ở trên núi, từng được ban tặng sắc, chuẩn cho thờ phụng. Đến nay, Trẫm nhận mệnh lớn, nghĩ đến công ơn của thần, nên tặng thêm: Hùng Trì Tĩnh Trấn Đôn Hậu Tủng Bạt Trung đẳng thần. Thần hãy che chở, bảo vệ cho dân của ta. Kính đấy!

Ngày mồng 3 tháng 7 năm Tự Đức thứ 3 (1850).

2. An Cư Đông là ngôi làng nằm dưới chân núi Hải Vân, một phần núi Hải Vân thuộc địa phận của làng này. Làng An Cư Đông và An Cư Tây vốn chung một làng, được hình thành khoảng thế kỷ XVII với tên gọi là Phước An Cây Mít tộc. Sau đó trải qua hai lần đổi tên, Phước An Kiều Cư rồi An Cư. Đến cuối thế kỷ XIX, An Cư Đông và An Cư Tây tách thành hai làng. Người dân An Cư Đông xưa lấy hai nghề chính làm kế mưu sinh là đánh bắt thủy hải sản (ngư phủ) và khai thác rừng (tiều phu). Ngoài việc giữ các sắc phong của triều Nguyễn ban cho thần núi Hải Vân, làng An Cư Đông hiện nay vẫn còn lưu giữ tục lệ thờ cúng thần núi Hải Vân gắn liền với nghề khai thác rừng.

Nghề khai thác rừng là một nghề quan trọng trong cuộc sống của người An Cư Đông xưa. Ngôi làng này không có đất đai để trồng trọt, cuộc sống của họ dựa hết vào việc khai thác nguồn lợi từ tự nhiên ở vùng biển, đầm An Cư và núi Hải Vân. Xuất phát từ đặc điểm như vậy nên tín ngưỡng thờ cúng các vị thần tự nhiên ở An Cư Đông khá đậm nét. Hằng năm, vào ngày mồng 6 Tết ở làng An Cư Đông diễn ra lễ Khai sơn và lễ hội Cầu mùa (còn gọi là lễ Hạ vụ). Lễ Khai sơn gắn với nghề khai thác rừng và tín ngưỡng thờ thần núi Hải Vân. Vào ngày này, từ sáng sớm tinh mơ, làng sẽ tiến hành tế thần núi Hải Vân ở miếu Trấn Sơn (đền thần Hải Vân). Trước đây, cầu bắc qua sông An Cư chưa được xây dựng, đoàn tế lễ đi thuyền qua miếu làm lễ cúng tế. Ngày nay, khi giao thông đường bộ đã thuận lợi, phương tiện đi lại được thay bằng xe máy. Lễ tế do ông hội chủ làng làm chủ tế. Các phẩm vật được dâng lên như gà, xôi, cau trầu, rượu, hương đèn, giấy tiền… Họ cầu cho một năm khai thác rừng được thuận lợi, ăn nên làm ra và khai thác được bình an, không xảy ra tai nạn hay bị thú rừng tấn công. Lễ Khai sơn chính là lễ mở cửa rừng. Sau lễ này, người dân trong làng mới được phép lên rừng làm công việc của mình. Tuy rằng ngày nay người dân An Cư Đông không còn làm nghề khai thác rừng như trước đây nữa, nhưng lễ Khai sơn tại miếu Trấn Sơn vẫn diễn ra theo thường lệ của làng. Tiếp sau lễ Khai sơn chính là lễ hội Cầu mùa gắn với nghề khai thác thủy hải sản. Sau phần lễ tế để cầu cho một năm đánh bắt nhiều tôm cá là lễ hội đua ghe diễn ra trên sông An Cư, khán đài ở trước đình làng. Lễ hội đua ghe cũng là dịp vui chơi, tiệc tùng trong cả làng trước khi bắt đầu vào vụ đánh bắt mới trong năm.

Vào ngày 25 tháng Chạp hằng năm, tại miếu Trấn Sơn, làng An Cư Đông tiến hành làm lễ đóng cửa rừng. Sau lễ này, người dân trong làng không được phép lên rừng làm việc.

Thần núi Hải Vân là một nhiên thần, được Triều Nguyễn ban tặng sắc phong xếp vào hàng trung đẳng thần và xây dựng đền thờ phụng cho thấy tầm quan trọng của vị thần này trong tín ngưỡng của người Việt. Không những vậy, nó còn góp phần khẳng định tầm quan trọng của “Hải Vân quan - Hải Vân sơn” đối với vùng đất kinh đô trong cách nhìn nhận, đánh giá của Triều Nguyễn. Các di sản đền thờ, sắc phong, lễ Khai sơn, lễ đóng cửa rừng vẫn còn tồn tại là minh chứng chân xác cho sức sống của tín ngưỡng thờ cúng thần núi Hải Vân ở một ngôi làng đang bị đô thị hóa nhanh chóng như An Cư Đông (thị trấn Lăng Cô, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế).

M.V.Đ - N.H.N.B
(SHSDB38/09-2020)

 

---------------
1. Dương Văn An (2015), Ô châu cận lục, Trần Đại Vinh dịch, hiệu đính, Nxb. Thuận Hóa, Huế, tr. 24.
2. Quốc sử quán triều Nguyễn (2012), Đại Nam nhất thống chí, tập 1, Nxb. Lao Động, Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây xb, Hà Nội, tr. 114.
3. Quốc sử quán triều Nguyễn (2012), Đại Nam nhất thống chí, tập 1, Sđd, tr. 139.
4. Sđd, tr. 114.
5. Sđd, tr. 132.
6. Các bản phiên âm và dịch nghĩa này được sự góp ý, hiệu đính của hai anh Nguyễn Công Trí và Võ Khắc Vãng. Nhân đây, chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu này.
7. Tức vua Minh Mạng.

 

_______________

Tài liệu tham khảo:

1. Dương Văn An (2015), Ô châu cận lục, Trần Đại Vinh dịch, hiệu đính, Nxb. Thuận Hóa, Huế.
2. Quốc sử quán triều Nguyễn (2012), Đại Nam nhất thống chí, tập 1, Nxb. Lao Động, Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây xb, Hà Nội.

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • VÕ NGỌC LANNếu cuộc đời người là một trăm năm hay chỉ là sáu mươi năm theo vòng liên hoàn của năm giáp, thì thời gian tôi sống ở Huế không nhiều. Nhưng những năm tháng đẹp nhất của đời người, tôi đã trải qua ở đó. Nơi mà nhiều mùa mưa lê thê cứ như níu giữ lấy con người.

  • LTS: Đại Học Huế đang ở tuổi 50, một tuổi đời còn ngắn ngủi so với các Đại học lớn của thế giới. Nhưng so với các Đại học trong nước, Đại Học Huế lại có tuổi sánh vai với các Đại học lớn của Việt như ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Trên hành trình phát triển của mình, Đại Học Huế đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế, giáo dục, văn hoá ở miền Trung, Tây Nguyên, đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao cho khu vực và cả nước. Nhân dịp kỷ niệm này, TCSH phân công ông Bửu Nam, biên tập viên tạp chí, trao đổi và trò chuyện với PGS.TS. Nguyễn Văn Toàn, Giám đốc Đại Học Huế. Trân trọng giới thiệu với bạn đọc cuộc trò chuyện này.

  • VÕ ĐẮC KHÔICó một thời người Huế loay hoay đi vỡ núi, phá rừng trồng khoai sắn. Có một thời người Huế tìm cách mở cảng nước sâu để vươn ra biển lớn, hay đón những con tàu viễn xứ xa xôi. Cả nước, các tỉnh thành láng giềng như Quảng Bình, Quảng Trị, Đà Nẵng cũng đều ra sức làm như thế, sao ta có thể ngồi yên?

  • TRẦN ĐÌNH SƠNĐất Việt là cái nôi sinh trưởng của cây trà và người Việt biết dùng trà làm thức uống thông thường, lễ phẩm cúng tế, dâng tặng, ban thưởng từ hàng ngàn năm nay.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNGTừng là đất Kẻ Chợ – kinh đô triều Nguyễn xưa, ẩm thực Huế dựa trên nền tảng triết lý của cái đẹp, món ăn món uống phải ngon nhưng nhất thiết phải đẹp, vị phải đi với mỹ, thiếu mỹ thì không còn vị nữa.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCTrong vô vàn những bài thơ viết về Huế, hai câu thơ của Phan Huyền Thư dễ làm chúng ta giật mình:Muốn thì thầm vuốt ve Huế thật khẽLại sợ chạm vào nơi nhạy cảm của cơ thể Việt Nam                                                                    (Huế)

  • FRED MARCHANT(*)                                                                                      Trong chuyến viếng thăm Huế lần thứ hai vào năm 1997, tôi làm một bài thơ đã đăng trong tập thứ hai của tôi, Thuyền đầy trăng (Full Moon Boat). Bối cảnh bài thơ là một địa điểm khảo cổ nổi danh ở Huế. Có thể nói là bài thơ này thực sự ra đời (dù lúc đó tôi không biết) khi nhà thơ Võ Quê đề nghị với tôi và các bạn trong đoàn ghé thăm Đàn Nam Giao trước khi đi ăn tối ở một quán ăn sau Hoàng Thành bên kia sông Hương.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀNDu khách là người trong mắt nhìn và qua cảm nhận của chính người đó.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCTừ buổi hồng hoang của lịch sử, hình ảnh ban đầu của xứ Huế chỉ thấp thoáng ẩn hiện qua mấy trang huyền sử của đất nước Trung Hoa cổ đại. Tài liệu thư tịch cổ của Trung Quốc đã kể lại từ năm Mậu Thân đời vua Đường Nghiêu (2353 năm trước Công nguyên), xứ Việt Thường ở phương Nam đã đến hiến tặng vua Nghiêu con rùa thần từng sống qua ngàn năm tuổi.

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCCó một hiện tượng lịch sử lý thú, ở những nơi khác vốn dĩ bình thường  nhưng ở Huế theo tôi là rất đặc biệt, đó là tại mảnh đất này sau hơn ba mươi năm ngày đất nước thống nhất, đã hình thành một thế hệ nữ doanh nhân thành đạt giữa chốn thương trường.

  • MINH TÂMTôi nghe bà con bán tôm ở chợ Bến Ngự kháo nhau: Dân nuôi tôm phá Tam Giang đã xây miếu thờ “Ông tổ nghề” của mình gần chục năm rồi. Nghe nói miếu thờ thiêng lắm, nên bà con suốt ngày hương khói, cả những người nuôi tôm ở tận Phú Lộc, dân buôn tôm ở Huế cũng lặn lội vượt Phá Tam Giang lễ bái tổ nghề.

  • PHẠM THỊ ANH NGA"Hiểu biết những người khác không chỉ đơn giản là một con đường có thể dẫn đến hiểu biết bản thân: nó là con đường duy nhất" (Tzvetan Todorov)

  • TRẦN ĐỨC ANH SƠNSau hơn 1,5 thế kỷ được các chúa Nguyễn chọn làm thủ phủ của Đàng Trong, đến cuối thế kỷ XVIII, Huế trở thành kinh đô vương triều Tây Sơn (1788 - 1801) và sau đó là kinh đô của vương triều Nguyễn (1802 - 1945).

  • TRƯƠNG THỊ CÚC Sông Hương là một trong những nét đẹp tiêu biểu của thiên nhiên xứ Huế. Sông là hợp lưu của hai nguồn Hữu Trạch, Tả Trạch, chảy qua vùng đá hoa cương cuồn cuộn ghềnh thác, đổ dốc từ độ cao 900 mét đầu nguồn Hữu trạch, 600 mét đầu nguồn Tả trạch, vượt 55 ghềnh thác của nguồn hữu, 14 ghềnh thác của nguồn tả, chảy qua nhiều vùng địa chất, uốn mình theo núi đồi trùng điệp của Trường Sơn để gặp nhau ở ngã ba Bàng Lãng, êm ả đi vào thành phố, hợp lưu với sông Bồ ở Ngã Ba Sình và dồn nước về phá Tam Giang, đổ ra cửa biển Thuận An.

  • Chúng ta biết rằng trong thời đại ngày nay, khi đầu tư xây dựng những cơ sở nhằm đáp ứng nhu cầu cao của người đi du lịch, văn hóa ẩm thực được xem như là cánh cửa đầu tiên được mở ra để thu hút du khách.

  • Chúng tôi đi thăm đầm chim Quảng Thái, theo ông Trần Giải, Phó chủ tịch huyện Quảng Điền.

  • I. Chúng tôi xin tạm hiểu như sau về văn hóa Huế. Đó là văn hóa Đại Việt vững bền ở Thăng Long và Đàng Ngoài chuyển vào Thuận Hóa - Phú Xuân.

  • Thúng mủng Bao La đem ra đựng bột. Chiếu Bình Định tốt lắm ai ơi. Tạm tiền mua lấy vài đôi. Dành khi hiếu sự trải côi giường Lào.

  • LTS: Tiến sĩ Nguyễn Thuyết Phong hiện đang dạy tại trường đại học Kent State thuộc tiểu bang Ohio, . Đây là một trong những bài trích ra từ cuốn Hồi ký âm nhạc, gồm những bài viết về kinh nghiệm bản thân cùng cảm tưởng trong suốt quá trình đi đó đây, lên núi xuống biển, từ Bắc chí Nam của ông để sưu tầm về nhạc dân tộc. Được sự đồng ý của tác giả, TCSH xin trân trọng giới thiệu cùng độc giả.

  • Từ sau ngày giải phóng đến nay, tôi chưa một lần gặp lại Anh hùng Vai và Anh hùng Kan Lịch. Về Huế hoài nhưng lên A Lưới lại không đủ giờ và không dễ dàng gì. Những năm trước, đường về A Lưới còn chật hẹp, lổm chổm đất đá, lại hay sạt lở... đi về rất khó khăn và phải mất vài ngày. Đến Huế vào mùa khô thì lại ít thời giờ. Về Huế dịp mùa mưa thì đường về A Lưới luôn tắc nghẽn.