Tìm trong nỗi nhớ (1), một giọng nói dịu dàng, một ánh nhìn nhân hậu...

14:32 01/07/2009
LÊ HỒNG SÂMTìm trong nỗi nhớ là câu chuyện của một thiếu phụ ba mươi tám tuổi, nhìn lại hai mươi năm đời mình, bắt đầu từ một ngày hè những năm tám mươi thế kỷ trước, rời sân bay Nội Bài để sang Matxcơva du học, cho đến một chiều đông đầu thế kỷ này, cũng tại sân bay ấy, sau mấy tuần về thăm quê hương, cô cùng các con trở lại Pháp, nơi gia đình nhỏ của mình định cư.

Truyện do hai người kể: bảy chương lẻ (1,3,5,7,9,11,13) là lời của cái "tôi" hồi tưởng hay tưởng tượng - người kể ở ngôi thứ nhất nói về những sự kiện đã xảy ra hoặc có thể xảy ra; qua bảy chương chẵn (2,4,6,8,10,12,14), người kể ở ngôi thứ ba thuật lại những gì đang diễn tiến trong hiện tại. Hai mạch truyện, hai người dẫn, quá khứ, hiện tại, tương lai, thực và mộng đan xen, hoà quyện... thủ pháp tự sự này khiến cuốn tiểu thuyết không đơn điệu, song đáng chú ý là vẫn giữ được sự liên tục, và tính thống nhất. Trước hết, truyện được cấu trúc rất kỹ: lời (hoặc ý) kết thúc chương trước nối với lời (hoặc ý) mở đầu chương sau, tạo cảm giác liền mạch, không đứt đoạn, tương tự một bài thơ liên vận. Thí dụ chương 2 khép lại bằng ý nghĩ của Lan Chi, nữ nhân vật chính, tại một thành phố miền Nam nước Pháp "Mùa đông năm nay thật lạ. Trời lạnh đến thế rồi mà sao vẫn chưa có tuyết rơi?" thì chương 3 mở ra cũng với hình ảnh tuyết, nhưng là trong ký ức của "tôi", về một thời gian, không gian khác "Tuyết rơi nhiều, rất nhiều, mùa đông năm ấy ở Matxcơva"...

Tuy nhiên, sự bố trí bên ngoài - dù công phu khéo léo - chỉ là một yếu tố gắn bó, kết nối bề mặt. Điều chủ chốt, tạo nên tính thống nhất bên trong, chính là âm điệu, là cái nhìn nhất quán, bao trùm và xuyên suốt tác phẩm: một cách nhìn thông minh và đôn hậu, một giọng nói hiền hoà nhỏ nhẹ. Tính từ dịu dàng xuất hiện nhiều lần chắc không phải ngẫu nhiên. Tình yêu trong cảm nhận của nhân vật chính bao giờ cũng gắn với sự dịu dàng: chương 3 - hồi ức về mối tình đầu chớm nở - mở ra với những bông tuyết đầu mùa "tinh khiết và dịu dàng", khép lại khi Matxcơva vào xuân, tuyết đang tan, "trời rất trong, rất dịu". Ở chương 5, người kể truyện nhớ về buổi sáng tỉnh dậy sau đêm đầu tiên trao gửi cho người yêu sắp cưới - "một cảm giác dịu dàng tràn ngập người tôi". Rồi đường đời của họ rẽ thành hai ngả, và mười hai năm sau gặp lại, biết rằng không thể quên nhau, cũng biết rằng không thể (và không nên) đảo lộn những gì đã an bài, Lan Chi nhận ở Kiên chiếc hôn từ biệt, "một nụ hôn thật dịu dàng nhưng ngắn ngủi". Mối tình sau này với Trung, cuộc hôn nhân, gia đình nhỏ họ xây đắp... cũng thấm đượm điều ấy: vòng tay Trung ôm dịu dàng khi cô kể cho anh nghe về cô và Kiên, thành phố Verona huyền bí dịu dàng trong tuần trăng mật, sự gần gũi dịu dàng và âu yếm của chồng mà cô nhớ nhung. Còn đây là ấn tượng mọi người lưu giữ về nhân vật: trong mắt người châu Âu, cô là một phụ nữ Á đông dịu dàng và dễ thương, Kiên không thể quên cô chính là vì cô dịu dàng đằm thắm, Trung luôn đầu hàng khi vợ "dịu dàng quá, dịu dàng không chịu nổi"...

Nhưng một giọng điệu dịu dàng nhỏ nhẹ triền miên cũng có nguy cơ trở thành phẳng lặng, đôi khi tẻ nhạt (chẳng hiểu có phải để tránh điều này hay không mà trong sáng tác, phê bình, tranh luận gần đây, giọng điệu khá phổ biến là đáo để, sắc sảo, nhiều khi dữ dội, sỗ sàng? tất nhiên, việc "đảo lộn thứ bực" trong ngôn ngữ, phong cách, là một trong những cố gắng đổi mới văn chương, ở ta cũng như ở châu Âu, có điều đừng tạo nên thành một lối mòn, một ước lệ mới). May thay, Tìm trong nỗi nhớ hiền hoà, mà lại rất có duyên, nhờ nụ cười thấp thoáng ở mỗi trang. Có thể thấy trong tác phẩm mọi cung bậc, mọi sắc thái hài hước: âu yếm - như khi nói về những đứa con của Lan Chi sáng sáng "truy tìm đồ thất lạc" trước khi chạy bộ đến trường, một trò mà chúng "rất khoái" v.v., dí dỏm - thí dụ cảnh Lan Chi và Thanh Hoa đơn độc "đánh quả" ở Nga "không có bồ là rất thiệt... người nào có bồ thật đúng như có cánh. Bàn là nồi hầm... cứ tự dung bay vèo vèo về nhà"... Sự giễu cợt có khi chua chát - ngay trang đầu đã cho thấy mấy cậu bạn vụng về của Lan Chi "mặt đỏ lựng lên ngang màu đỏ của bông hồng thêu trên quần lót", những chiếc quần đem sang thị trường Nga, đôi lúc xót xa - nhẫn nhục xếp hàng, chờ đợi, để rồi tẽn tò nghe cô bán hàng dõng dạc tuyên bố không bán nữa và "thấy mình thiểu não ra về, mặt mũi bơ phờ, nhân cách tơi tả". Một vài mũi nhọn châm biếm được sử dụng khá thích đáng, khi nhằm vào các nhà khoa học "dỏm" trong và ngoài nước, một số chức sắc quan liêu, cửa quyền, (hình như vẫn hơn hiền lành, tuy không thiếu thông minh? thôi, chẳng thà vậy còn khiến người đọc dễ chịu hơn là nhiều sự đanh đá mà ít chất trí tuệ!)

Theo người kể, Lan Chi viết cuốn tiểu thuyết tự truyện này để nhìn lại con đường của cô và bạn bè, lớp du học sinh ra đi vào những năm tám mươi thế kỷ trước, bây giờ vài người ở trong nước, "còn thì tung tán khắp mọi nơi, Nga, Pháp, Anh, Đức, Mỹ, Nhật... nơi nào cũng có". Gần đây, một vài tác giả sống ở nước ngoài đã thể hiện các cảnh đời của người Việt tại xứ người, có những truyện viết chân thực, và hay (thí dụ như truyện của Nguyễn Văn Thọ mà tôi có dịp đọc). Tìm trong nỗi nhớ cũng nói về cả mặt phải và mặt trái của cuộc sống tha hương, một cách tinh tế, chừng mực, không cường điệu, không gượng nhẹ. Những dấu ấn của lịch sử, những dư âm từ quá khứ vẫn chi phối mỗi thành viên trong cộng đồng xa xứ, kẻ có ý thức, người bất tự giác, kẻ không muốn gỡ ra, người cố hoá giải... Đôi khi một hai nét phác hoạ nhẹ tênh - thí dụ như "một thoáng im lặng" của bà nội, khi thằng cháu định hát bài "Hà Nội, niềm tin và hy vọng" để đáp ứng lời bà khuyến khích hát tiếng Việt, rồi sự khó xử của bố mẹ bé trước tình huống ấy "Trung và Lan Chi cười cười nhìn con trai, chưa biết nói sao" - mà tiềm ẩn bao khác biệt thuộc tâm tư ba thế hệ! Lại có những lúc, nỗi day dứt bên trong thốt ra thành lời, và một âm điệu trữ tình bâng khuâng bỗng cất lên, thay cho giọng đùa cợt hóm hỉnh thường trực. Đó là phút giây hồi ức trỗi dậy, nữ nhân vật cảm thấy "quả tim như thắt lại, vật vã: nó biết rằng tôi yêu Tr., yêu thực sự, vậy mà tại sao một góc sâu thẳm trong lòng tôi vẫn chẳng thể quên K.?" Đó là lúc sắp rời Hà Nội trở lại Paris, Lan Chi "bắt chợt mình ghen tị với dòng người hối hả ngược xuôi trên đường phố. Ghen với sự thanh thản của một tình yêu trọn vẹn không bị giằng xé làm đôi. Ghen với cái hạnh phúc bình yên khi nhà và quê hương là một".

Cách thể hiện các biến cố, các tâm trạng, tất nhiên đã phần nào bao hàm ý định lý giải nơi người kể. Một điều rất rõ là cảm giác ngỡ ngàng của nhân vật chính (cũng là người kể xưng tôi), cô đọng trong một từ trở đi trở lại, với tần số còn cao hơn dịu dàng, đó là từ "bất ngờ". Chương 1, thuật lại cảnh lên đường của các thanh niên "đầu đầy ắp ước mơ", đã báo trước "Cuộc đời luôn luôn có những biến động bất ngờ (...) Nhưng vào thời điểm đó (...) không ai trong chúng tôi có thể ngờ trước điều này". Chương 2 nhắc lại ý đó "Chỉ vì cuộc đời cứ thích đi theo những đường ngoắt ngoéo, thích rẽ ngoặt ở những khúc bất ngờ"... Việc Thanh Hoa lấy chồng khác hẳn với dự kiến và hy vọng của bạn bè, bởi "cuộc đời đã quyết định theo kiểu khác, bằng cách đưa vào một nhân tố mới". Chuyện hôn nhân của Trung và Lan Chi cũng vậy: tiếng bất ngờ xuất hiện dày đặc, đến ba lần chỉ trong hai dòng "Trung bước vào đời tôi bất ngờ như vậy. Với anh, tôi đi từ bất ngờ này sang bất ngờ khác". Và ngay trang tiếp theo, "...tôi hơi bất ngờ khi nghe anh hỏi tôi đã ăn tối chưa (...) Bất ngờ với cả chính mình, tôi đồng ý ngay...". Cả trong những sự kiện nhỏ, hoặc tưởng như nhỏ, ngẫu nhiên cũng giữ vai trò quan trọng - công việc bán sách "đến với Lan Chi một cách hoàn toàn tình cờ ", cô quen Rita "một cách hoàn toàn tình cờ "... Đúng là trong cuộc sống của mỗi người, không ít điều do ngẫu nhiên quy định, và nói như nhà tiểu thuyết Pháp Honoré de Balzac "Ngẫu nhiên là nhà tiểu thuyết vĩ đại nhất trên đời". Song, cũng theo Balzac, bên các ngẫu nhiên thuần tuý, có những ngẫu nhiên "là quy luật chưa được hiểu thấu", và nhà văn cần phá vỡ tính ngẫu nhiên bên ngoài của sự vật, để phát hiện tính quy luật. Người kể có cố gắng thực hiện điều đó, ở chỗ này chỗ khác. Trả lời Thanh Hoa vì sao mối tình đầu đắm say của cô lại tan vỡ, Lan Chi không trút mọi sự cho "cuộc đời trớ trêu" mà thành thực "Có lẽ vì tất cả. Vì Kiên, vì tao, vì hoàn cảnh." Sau này, người kể truyện để Kiên lý giải "hoàn cảnh" ấy với Lan Chi "Nếu như hơn chục năm trước mà tình hình ở trong nước đã được như bây giờ thì chắc anh chẳng phải đi Ba Lan đánh quả làm gì. Cả em nữa, có khi em cũng chẳng sang Pháp, đúng không? Cuộc đời chúng mình lẽ ra đã có thể khác hẳn rồi."

Thế nhưng, quá khứ là quá khứ, nói như Lan Chi, giờ đây "tất cả đã an bài". Và dù tâm hồn đôn hậu của cô không thôi day dứt, "mặc cảm có lỗi với Kiên", mặc cảm rằng bố mắc bệnh tim "do quá đau buồn" về việc cô lấy Trung và ở lại Pháp, mặc cảm mình "phần nào trở thành người lạ" với quê hương, nhưng chính nỗi đau ám ảnh ấy, những dày vò trăn trở ấy - chứ không phải sự bình thản, hoặc thoả mãn - mới thực sự khiến quê hương "mãi mãi là một chốn để thương để nhớ " trong lòng những đứa con xa xứ, bởi có tình yêu sâu xa nào lại không ít nhiều gắn với nỗi đau?

L.H.S
(179-180/01&02-04)

------------------
1. Lê Ngọc Mai, Tìm trong nỗi nhớ, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội,2003.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • VŨ NGỌC KHÁNHLTS: Ngày 17-11-2007, tại Văn miếu Quốc tử giám Hà Nội, Trung tâm Minh Triết Việt đã tổ chức Lễ tưởng niệm các nhà giáo Đông Kinh Nghĩa Thục. Giới trí thức học thuật của Hà Nội, nhiều thanh niên, sinh viên và hậu duệ của một số nhà Đông Kinh Nghĩa Thục (ĐKNT) đã đến dự.

  • MAI VĂN HOAN     Nhà xuất bản Văn học vừa ấn hành tập thơ Cõi lặng của Nguyễn Khoa Điềm. Cõi lặng gồm 56 bài, đa phần được viết sau khi tác giả nghỉ hưu. Điều đó cũng là lẽ thường. Các nhà thơ như Nguyễn Trãi, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến... đều như thế cả. Khi đương chức họ bận trăm công nghìn việc. Phải đến lúc nghỉ hưu họ mới sống thoải mái hơn, dành nhiều thời gian cho thơ hơn. Đọc Cõi lặng ta mới thấu hiểu tâm trạng của nhà thơ, mới nghe được nhịp đập của một trái tim nhiều trăn trở.

  • HỒNG NHU“Trường đại học của tôi” là cuốn sách thứ 4 của Nguyễn Nguyên An (tức Nguyễn Văn Vinh) trình bạn đọc trong khoảng mười năm trở lại đây. Ba cuốn trước là truyện ngắn, cuốn này là truyện dài.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊChỉ mới qua hai tác phẩm “Báu vật của đời”(NXB Văn nghệ TPHCM, 2001) và “Đàn hương hình”(NXB Phụ nữ, 2002), Mạc Ngôn - nhà văn “hạng nhất” thuộc Cục Chính trị Bộ Tổng Tham mưu Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc - đã trở nên nổi tiếng ở Việt Nam, thậm chí đã vượt lên cả những “ngôi sao” quen thuộc như Giả Bình Ao, Trương Hiền Lượng, Vương Mông... và cả nhà văn Cao Hành Kiện (Noben 2001).

  • ĐỖ XUÂN NGÂNTôi hân hạnh được đọc tác phẩm Đời hoa, tập tản văn của nhà văn Nguyễn Khắc Phê do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành 1999.

  • NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Lãng Đãng Mây Trời của Thanh Nhơn - NXB Thuận Hoá - năm 2001)Gấp tập thơ "Lãng đãng mây trời" lại, tôi như thấy dưới mái tóc bồng bềnh trong gió của ông là cặp mắt nhìn xa xăm, phiêu diêu, và quanh đâu đây là hương rượu nếp thơm nồng toả ra từ vành môi tủm tỉm cười của ông.

  • HOÀNG BÌNH THI (Đọc thơ HÀ MINH ĐỨC)Trong cơn mưa đầu mùa tầm tã của xứ Huế, tôi đọc lại những bài thơ của giáo sư Hà Minh Đức với một nỗi buồn riêng. Một chút ngạc nhiên mà chẳng ngạc nhiên chút nào, khi song hành với sự uyên bác trong học thuật là một tâm hồn nhạy cảm và tinh tế vô cùng.

  • LÊ THIẾU NHƠN(Tản văn và bình văn của nhà văn - nhà báo Trần Hữu Lục)Một cuốn sách tập hợp những bài báo của nhà văn Trần Hữu Lục sau nhiều năm anh đồng hành với bè bạn văn nghệ.

  • HOÀNG KIM ĐÁNGÔng nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ này là một trong những nhà văn châm biếm đứng hàng đầu thế giới. Hai mươi năm trước, ông đã đến Việt . Sở dĩ tôi khẳng định chắc chắn như vậy, bởi tôi có trong tay dòng bút tích ghi rõ năm tháng và chữ ký của tác giả; thậm chí còn chụp ảnh kỷ niệm với ông nữa. Tấm ảnh ấy, những dòng bút tích ấy, hiện còn lưu giữ trong cuốn truyện "NHỮNG NGƯỜI THÍCH ĐÙA", sách đó Nhà xuất bản Tác Phẩm Mới của Hội Nhà văn Việt Nam xuất bản lần thứ nhất.

  • HỒ THẾ HÀ(Đọc Cho từng ánh lửa, tập thơ của Hải Trung, NXB Thuận Hoá - Huế, 1999)Sự hiện diện của thơ Hải Trung trong đội ngũ những người sáng tác trẻ ở Huế là một niềm vui sau nhiều năm lặng lẽ âu lo của nhiều người về thế hệ làm thơ kế cận của xứ sở được mệnh danh là giàu mơ mộng thi ca này.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG(Đọc tập truyện "Ngôi nhà hoang bí ẩn" của Phan Văn Lợi)Tôi đọc mê mải tập truyện đầu tay của tác giả Phan Văn Lợi. Cái tựa "Ngôi nhà hoang bí ẩn" gợi trong lòng người đọc một câu hỏi ban đầu: Cuốn sách viết về cái gì đây? Càng đọc, càng bị cuốn hút khi cùng anh trở lại miền ký ức, để đi qua những năm tháng chiến tranh khốc liệt.

  • LÊ MỸ ÝSau một loạt tác phẩm và tác giả được giới thiệu trên nhiều lĩnh vực tôn giáo, triết học, văn hoá, khoa học và nghệ thuật để làm tư liệu nghiên cứu và tham khảo, trong quý một năm nay, Nhà xuất bản Văn học lại tiếp tục cho ra mắt bộ sách lớn:"Krishnamurti - cuộc đời và tư tưởng" do Nguyễn Ước chuyển ngữ. Đây là một bộ sách công phu và được nhiều độc giả chờ đợi đón đọc.

  • VĂN CẦM HẢI       (Nằm nghiêng - Thơ- Nxb Hội Nhà văn 5/2002)Trên đất Thư "viết buồn thành mưa". Dưới trời Thư "viết buồn thành gió". Giữa đời Thư "viết nỗi buồn sống".

  • TRẦN THUỲ MAIThơ Ngàn Thương bàng bạc một nỗi quan hoài. Trong thơ anh, ta luôn gặp một vẻ quyến luyến ngậm ngùi, đúng như ấn tượng từ cái bút danh của tác giả: Ngàn Thương.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOLTS: Vậy là đã đúng một chu kì World Cup, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường bị “cải bệnh hoàn đồng” và phải tập ăn tập nói, tập đi tập đứng lại từ đầu. Dù vậy, anh vẫn viết được và viết hay như trước.Trong dịp Festival Huế 2002, đã diễn ra một cuộc hội thảo văn học về Hoàng Phủ Ngọc Tường nhân bộ tuyển tập của anh được Công ty Văn hóa Phương ấn hành.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu một số ý kiến đã thành văn được trình bày trong hội thảo đó.

  • NGUYỄN THIỀN NGHIHai chữ "Trăng lạnh" trắng trên nền bìa màu lam do tác giả tự trình bày bềnh bồng một chút tôi bằng những bài thơ tự sự của mình.

  • VỌNG THẢO(Đọc sách "Nhà văn Thừa Thiên Huế" – NXB Thuận Hoá 2002).Trải qua nhiều thế kỷ, Huế bao giờ cũng là miền đất tụ hội nhiều nhân tài văn hoá - văn học của đất nước. Trong bảng quang phổ bản sắc Việt Nam vô cùng bền vững, miền đất hội tụ nhân tài ấy luôn đằm thắm, lấp lánh một bản sắc "thần kinh" riêng biệt - một bản sắc mà tiếng nói của văn chương là thuần khiết và đa dạng.

  • NGUYỄN VĂN HOA           Tôi đã đọc sách Ăn chơi xứ Huế của nhà thơ Ngô Minh (*) một mạch như bị thôi miên. 247 trang sách với 36 bài bút ký viết về triết lý ẩm thực Huế, về các món ăn Huế như tiệc bánh, cơm muối, mè xửng, tôm chua, chè Huế, bánh canh, bún gánh, nem lụi, hôvilô (hột vịt lộn), bánh chưng, bánh khoái, cơm chay, chè bắp, món vả trộn, cháo lòng, rượu Minh Mạng Thang...

  • KIM QUYÊNĐọc tản văn của nhà văn Mai Văn Tạo (*) và nhà văn Trần Hữu Lục (*) tôi như đứng trên những tảng mây lấp lánh sắc màu, theo gió đưa về mọi miền, mọi nẻo quê hương.

  • HƯƠNG LANGuy de Maupassant sinh ngày 5-8-1850 ở lâu đài xứ Normandie. Trong một gia đình quý tộc sa sút. Khi mà nước Pháp vừa trải qua cuộc đụng đầu lịch sử giữa giai cấp tư sản hãy còn nhức nhối những vết thương thất bại của cuộc cách mạng năm 1848.