"Miếng ngon nhớ lâu". Đọc câu thơ hay cũng tựa như được ăn miếng ngon. Khó quên. Thơ về hạt mưa, xưa nay thiên hạ đã tìm cảm hứng và đã viết.
Nhưng rồi lúc đọc: "Giọt mưa làm ướt nỗi buồn/Hay buồn làm ướt tâm hồn giọt mưa?", tôi đã cảm thấy câu lục bát ấy đã có cách nói mới. Tác giả là Nguyễn Việt Anh, do tai nạn đã trở thành người khiếm thị từ năm 13 tuổi.
Từ trong bóng tối, chàng trai sinh năm 1982, quê Hà Nội này đã tìm thấy "ánh sáng" từ thơ. Nói cách khác, qua thơ, anh đã tìm thấy niềm sống tưởng chừng như cũng đang chan hòa ánh sáng. Đó là ánh sáng của niềm vui sáng tạo, bầu bạn cùng con chữ. Sau tập thơ "Thức cùng bóng tối", anh đã lần lượt có "Bầu trời nhỏ", "Em là đôi mắt", "Nhân đôi bầu trời" và nay, "Mắt chiều khép ánh hoàng hôn" (NXB Phụ Nữ).
Những câu thơ ấy, tôi nghĩ là tiếng lòng của một người dành cho một người. Người đó không ai khác, chính là Nguyễn Việt Anh thôi. Những câu thơ nặng trĩu nỗi niềm, một bâng khuâng không rõ nét:
Nâng ly bóng chạm với hình/Tưởng ta cay đắng một mình mà đôi.
Đôi ở đây cực hay bởi ta cay đắng thì hình bóng ấy cũng cay đắng nốt. Tôi lại nhớ đến câu thơ của Tản Đà tiên sinh:
Bóng ơi mời bóng vào nhà/ Ngọn đèn khơi tỏ, đôi ta cùng ngồi.
Cách nói giữa chính mình với bóng, xét ra hầu như cũng đều thể hiện sự đơn độc. Lấy cái bóng làm tri kỷ. Nghĩ thế mới thấy tâm trạng ấy lẻ loi đến dường nào.
Có người hỏi: "Cuộc đời nhiều đau khổ dễ dẫn đến một hồn thơ bi quan. Tại sao anh lại không như vậy?". Nguyễn Việt Anh trả lời: "Tôi nghĩ rằng ai cũng có khoảng thời gian sóng gió, gập ghềnh trong đời, người bình thường cũng vậy và người có hoàn cảnh đặc biệt như tôi cũng vậy. Điều quan trọng là chúng ta đối mặt với nó như thế nào và ứng xử với nó ra sao. Ứng xử với những điều đó chính là cách làm cho cuộc sống sáng sủa và tốt đẹp hơn".
"Thắp lên một ngọn nến, còn hơn ngồi nguyền rủa bóng tối". Nhiều người đã nhớ và thích câu châm ngôn này. Có điều, khi va chạm vào cảnh ngộ không ưng ý, liệu mấy ai có thể thực hiện theo? Với Nguyễn Việt Anh vẫn tin tưởng: "Chợt rơi nỗi nhớ vô hình/Gặp người yêu chở bóng mình đi chơi". Chỉ nghĩ thế, lấy đó làm vui. Khi đọc thơ của Nguyễn Việt Anh, tôi thích sự bao dung ở một tâm niệm:
Muốn cưu mang chẳng đủ tiền/Vết thương người ấy tấy lên thân mình.
Một lời biện bạch đáng yêu quá đi mất. Và từ trong bóng tối, anh đã chiêm nghiệm về một lẽ thường tình mà không phải ai cũng nhận ra:
Cám ơn giọt nước không lời/Dạy ta biết cách bay hơi thế nào?
Thơ lục bát dễ làm, nếu biết vần níu theo vần. Tuy nhiên, lại cực khó bởi không dễ tìm ra một cách nói mới trong quy định ngặt nghèo chỉ sáu và tám nối mạch theo nhau. Không khéo sẽ trở thành vè. Nguyễn Việt Anh đã chọn lấy cách nói ngắn và gọn. Không dài dòng. Có thể cũng do hoàn cảnh của anh chăng?
Thời buổi này, một tập thơ in ra, hàng trăm tập thơ in ra, nghĩ cho cùng cũng là âm vang của viên sỏi rơi xuống dòng sông. Mà cũng chẳng sao, nhất là trong những trường hợp cụ thể như Nguyễn Việt Anh, quý lắm bởi chính thơ đã giúp họ có được ánh sáng của niềm vui sống mỗi ngày.
Theo Anh Lưu - NLĐ
1. Đời người trăm năm như nhau, nhà văn Tây hay ta gì gì ông Trời cũng chẳng ưu ái thêm ngày nào, vậy mà bên trời ấy thế hệ này đến thế hệ khác nảy nòi bao nhiêu tiểu thuyết gia lớn. Còn ta thì không. Tại sao?
Phan nhân 1972 ( Hồi ức K15 trường Chuyên Phan Bội Châu Nghệ Tĩnh - NXB Hội Nhà văn, tháng 7/2019 ) có lẽ là một trong những cuốn sách thú vị nhất về tuổi học trò mà tôi từng đọc.
Ngày 6-7, tại Hà Nội, buổi giao lưu ra mắt bút ký chính luận “Một thời Đông Bắc” của tác giả Vũ Mão và ký sự tiểu thuyết “Mãi mãi một thời Thiếu sinh quân” của nhà văn Ma Văn Kháng do NXB Kim Đồng tổ chức đã thu hút sự tham gia của đông đảo các nhà văn, nhà phê bình văn học, các cựu học viên trường Thiếu sinh quân Việt Nam.
Ra mắt tập thơ đầu tay năm 2003, đến nay, nhà văn Nguyễn Văn Học đã xuất bản 15 tác phẩm bao gồm tiểu thuyết, truyện ngắn và thơ.
Văn học Nhật Bản đang để lại dấu ấn sâu đậm và mạnh mẽ cả về số lượng lẫn chất lượng. Bên cạnh dòng văn học kinh điển gắn liền với những tác giả có ảnh hưởng trên thế giới, thị trường xuất bản trong nước còn chứng kiến cuộc “đổ bộ” của những tác giả đương đại với số lượng tác phẩm không hề nhỏ.
Tôi vẫn luôn nghĩ rằng, đối với người nghệ sĩ, cô đơn tự xác lập hay cô đơn do ngoại cảnh, đó đều là những đặc ân. Bởi nhờ có cô đơn làm chất xúc tác, cảm thức sáng tạo mới bùng vỡ nơi người nghệ sĩ...” - Nhà văn Đỗ Chu cũng từng bảo: “Nghệ sĩ cô đơn được càng tốt!”.
Từ ba nguồn tư liệu chính sử, dã sử và dân gian, các nhà văn đã có cơ hội bung trổ trí tưởng tượng và khả năng hư cấu để cho ra đời những áng văn chương sinh động, hấp dẫn viết về lịch sử. Hai tiểu thuyết lịch sử mới ra mắt công chúng là “Từ Dụ Thái hậu” của Trần Thùy Mai và “Thiên địa phong trần” của Hà Thủy Nguyên.
Nhân kỉ niệm 62 năm thành lập (17/6/1957 – 17/6/2019), Nhà xuất bản Kim Đồng ra mắt ấn bản mới tập truyện Dưới chân Cầu Mây của nhà văn Nguyên Hồng. Tập truyện gồm ba truyện đặc sắc dành cho thiếu nhi: Đôi chim tan lạc, Dưới chân Cầu Mây vàCháu gái người mãi võ họ Hoa.
NXB Hà Nội và Thư viện Hà Nội tổ chức lễ ra mắt cuốn sách “Thời cuộc và Văn hóa” của nhà báo Hồ Quang Lợi, Phó Chủ tịch Thường trực Hội nhà báo Việt Nam
Nhà thơ Hữu Thỉnh đánh giá Huy Cận là người đem tâm nguyện “làm bục nhảy đưa sự sống lên cao”. Nhiều nhà thơ, nhà nghiên cứu có dịp quần tụ nhớ về hồn thơ Huy Cận dịp 100 năm ngày sinh của ông.
“Ba năm tồn tại. Thời gian không dài. Nhưng kỷ niệm một thời niên thiếu tươi đẹp hào hùng trong gian khổ làm sao có thể quên!”. Sau hơn 70 năm, khi những mảnh ký ức bắt đầu mờ nhòa, nhà văn Ma Văn Kháng đã “gạn lấy chút sức lực còn lại”, “rờ rẫm nhớ lại những gì đã trải qua”, để tái hiện chân dung thế hệ “măng non cách mạng” giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp.
Nhà văn Trần Thùy Mai vừa ra mắt bộ tiểu thuyết lịch sử “Từ Dụ thái hậu” sau một thời gian dài im tiếng. Điều thú vị, cuốn sách đề cập đến lịch sử nhưng được tác giả viết bằng văn phong thuần Việt, với ngôn ngữ nhuần nhị để thu hút độc giả trẻ.
Có thể nói, tiểu thuyết gia hiện đại đầu tiên của văn học Việt Nam chính là nhà văn Hồ Biểu Chánh. Với kho tàng đồ sộ 64 cuốn tiểu thuyết, ông được mệnh danh là “người kể chuyện đời” đầy lôi cuốn và có cá tính.
Giữ một vị trí khiêm tốn trong đời sống văn chương, nhưng thể loại phi hư cấu thời gian qua vẫn đều đặn đến với độc giả. Thậm chí, nhiều tác phẩm tạo được tiếng vang lớn, được in hàng chục ngàn bản. Chỉ có điều, trong những bảng vàng văn chương trong nước, hiếm khi những tác phẩm thuộc thể loại phi hư cấu được xướng tên.
Nhân dịp kỷ niệm 65 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954 – 7/5/2019), NXB Kim Đồng vừa cho ra mắt tập thơ “Điện Biên chiến thắng, Điện Biên thơ” của Đại tá, nhà thơ Ngô Vĩnh Bình tuyển chọn và giới thiệu.
Sau 65 năm, những kinh nghiệm lịch sử, bài học quý giá từ chiến thắng Điện Biên Phủ vẫn được học giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Không chỉ là góc nhìn riêng của mỗi bên, việc hợp tác để khai thác khối tư liệu, tài liệu lưu trữ - di sản chung của hai dân tộc Pháp - Việt nhằm có thêm sự đối chứng, từ đó làm rõ hơn lịch sử.
“ĐIỆN BIÊN PHỦ: 13/3-07/5/1954” là cuốn sách chuyên khảo của Tiến sĩ, Đại úy người Pháp Ivan Cadeau. Cuốn sách cung cấp các tài liệu lưu trữ của Pháp về sự kiện Điện Biên Phủ và chiến tranh tại Đông Dương, trong đó có nhiều tài liệu chưa từng công bố tại Việt Nam.
Ngày 30/4/1975 mãi là một ký ức tồn tại sâu thẳm trong tâm trí của những người đã trực tiếp chứng kiến. Đặc biệt là nhà báo, nhà văn Trần Mai Hạnh, người đã dành gần như cả cuộc đời cầm bút của mình để văn bản hóa lại những ký ức lịch sử về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước một thời của dân tộc Việt Nam.
Với sự nhân từ, đức độ, Từ Dụ thái hậu được dân gian lưu truyền là người phụ nữ quyền lực có sức ảnh hưởng to lớn dưới triều nhà Nguyễn. Từ cảm hứng ấy, nhà văn xứ Huế Trần Thùy Mai đã viết Từ Dụ thái hậu - một trường thiên tiểu thuyết gồm 69 chương, có thể xem là tiểu thuyết lịch sử dạng “cung đấu” hiếm hoi của văn học đương đại.
Sáng ngày 22/4/2019, tại thành phố Hồ Chí Minh, Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành buổi toạ đàm khoa học, giới thiệu công trình Nghiên cứu, lí luận, phê bình văn học ở Nam Bộ thời kì 1865-1954.