Tiết lộ sự thật về người duy nhất từ chối giải Nobel Văn học

09:26 12/01/2015

Mọi thông tin liên quan tới người được nhận giải Nobel sẽ chỉ được Viện hàn lâm Thụy Điển tiết lộ sau 50 năm. Giờ đây, sự thật về nhà văn duy nhất từng từ chối giải thưởng văn học danh giá nhất hành tinh đã được công bố.

Nhà văn Jean-Paul Sartre (1905-1980)

Một lá thư được gửi tới Ủy ban Nobel Thụy Điển hồi năm 1964, do chính nhà văn, nhà triết học nổi tiếng người Pháp Jean-Paul Sartre viết, mới đây đã được công bố, trong thư, ông khẳng định rằng mình sẽ từ chối nhận giải Nobel Văn học nếu giải được trao cho ông.

Lá thư này đã đến quá muộn để có thể thay đổi một sự việc hy hữu trong lịch sử trao giải Nobel Văn học. Tin này vừa được truyền thông Thụy Điển chính thức đăng tải.

Lúc lá thư của nhà văn Sartre tới nơi, tên người thắng giải Nobel Văn học năm 1964 đã được ủy ban xét giải đưa ra từ cách đó gần một tháng. Lá thư này chỉ được công bố trước công chúng sau 50 năm diễn ra lễ trao giải, theo đúng quy định của giải Nobel.

Lá thư đã giúp hậu thế hiểu rõ lý do tại sao Sartre quyết định từ chối nhận giải thưởng văn học danh giá nhất thế giới. Cho tới nay, ông là nhà văn duy nhất từ chối nhận giải Nobel Văn học.

Sartre sau này đã giải thích đơn giản rằng ông “luôn từ chối mọi sự tôn vinh”, thực tế, ông cũng đã từng từ chối nhận Huân chương Bắc đẩu bội tinh do Nhà nước Pháp trao tặng hồi năm 1945. Nguyên nhân sâu xa là bởi Sartre luôn sợ rằng những danh xưng, những sự tôn vinh sẽ làm hạn chế tư duy độc lập và khiến ông trở nên gò bó trong những sáng tác và nghiên cứu của mình.


Giờ đây, lá thư của Sartre đã được công bố để đông đảo công chúng được biết sau 50 năm giữ kín theo quy định của giải Nobel. Trong thư, Sartre đã đề nghị ủy ban xét giải đưa ông ra ngoài danh sách những nhà văn được cân nhắc nhận giải.

Trong suốt nhiều năm, nhà văn Sartre đã được công chúng và những người trong giới văn chương coi như một ứng viên tiềm năng của giải Nobel Văn học. Vì vậy, ông đã gửi thư tới Quỹ Nobel vào ngày 14/10/1964, để nói rằng ông sẽ không nhận giải “dù là năm 1964 hay là trong tương lai”.

Tuy vậy, Ủy ban xét giải Nobel Văn học đã thống nhất lựa chọn Sartre là người nhận giải từ ngày 17/9 trước đó. Vì vậy, khi Viện hàn lâm Thụy Điển họp mặt vào ngày 22/10/1964, 18 thành viên hội đồng đã thống nhất sẽ vẫn trao giải cho nhà văn Sartre. Đúng theo những gì đã được đề cập trong thư, Sartre không thay đổi quyết định và đã từ chối nhận giải.

Nếu lá thư của nhà văn Sartre đến trước khi hội đồng họp mặt hồi giữa tháng 9/1964, có thể giải đã được trao cho một nhà văn khác.

Tại thời điểm đó, một số thành viên trong hội đồng trao giải còn khá tranh cãi về tài năng văn chương của Sartre, vì vậy, việc ông từ chối nhận giải Nobel càng làm dấy lên những tranh luận về sau.

Trước đây chỉ từng có một trường hợp tác gia từ chối nhận giải Nobel Văn học, đó là nhà thơ người Thụy Điển Erik Axel Karlfeldt. Nhưng ông đã thành công trong việc thuyết phục các thành viên trong hội đồng không trao giải cho mình hồi năm 1919 bởi khi đó, ông là một thành viên trong hội đồng xét giải.

Về sau, ông lại một lần được trao giải sau khi đã qua đời hồi năm 1931, ở thời điểm này, quy định về việc giải chỉ được trao cho những tác giả còn đang sống vẫn chưa được đưa ra.

Năm 1958, nhà văn người Xô Viết Boris Pasternak cũng từ chối nhận giải Nobel Văn học, nhưng theo nhiều nguồn tin, nhà văn Pasternak đã từ chối nhận giải thưởng này một cách không tự nguyện, vì vậy, trường hợp của Pasternak không giống như nhà văn Pháp Sartre.

Ngoài nhà văn Sartre, chỉ còn một nhân vật nữa từ chối nhận giải Nobel sau khi đã được xướng tên, đó là nhà ngoại giao nổi tiếng của Việt Nam - ông Lê Đức Thọ - người đồng nhận giải Nobel Hòa bình năm 1973 với Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger vì đã thương thảo thành công việc chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam.

Nguồn: Bích Ngọc - Dân Trí

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • VALENTIN HUSSON    

    Trước hết, ta phải hướng sự chú ý đến động từ “cách ly” khi mà với tư cách là một ngoại động từ, nó có nghĩa là sự vứt bỏ ra khỏi một giới hạn; trong khi với tư cách là một nội động từ, nó hướng đến sự ràng buộc để ở lại trong một vài giới hạn nhất định. Nó vừa nói lên cả sự vứt bỏ lẫn sự rút lui; vừa hiện diện vừa vắng mặt.

  • HIỀN LÊ

    Hiroshi Sugimoto (sinh năm 1948 tại Tokyo) là nhà kiến trúc sư, nhiếp ảnh gia người Nhật.

  • Palomar là tác phẩm hư cấu cuối cùng của Italo Calvino (1923 - 1985), một trong những nhà văn lớn nhất của Ý ở thế kỉ 20, xuất bản tháng 11 năm 1983.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀN  

    Nếu bình thường thì giờ nầy chúng tôi đang ở “hộp đêm” trong bụng máy bay Eva trên đường về Quê hương và đang vượt nửa sau Thái Bình Dương.

  • JEAN-CLET MARTIN   

    Trong thời điểm cách ly và tự cách ly này, thế giới tái khám phá ra chiều kích mang lại cho nó một phương hướng nhất định.

  • Slavoj Žižek, nhà triết học người Slovenia, được mệnh danh là “nhà triết học nguy hiểm nhất ở phương Tây” hiện nay. Ông nổi tiếng với tác phẩm Đối tượng trác tuyệt của ý thức hệ (The Sublime Object of Ideology, 1989), ở đó ông đã kết hợp quan niệm duy vật Marxist và phân tâm học Lacan để hướng đến một lý thuyết về ý thức hệ.

  • MARKUS GABRIEL   

    Trật tự thế giới bị lung lay. Một loại virus đang lây lan trên quy mô vô hình của vũ trụ mà ta không hề biết được những chiều kích thực sự của nó.

  • ĐỖ LAI THÚY  

    M. Bakhtin (1895 - 1975), nhà nghiên cứu văn học Nga - Xô viết có tầm ảnh hưởng bậc nhất ở Việt Nam. Ông là nhà lý luận tiểu thuyết. Người phát hiện/minh ra tiểu thuyết đa âm, tính đối thoại, nguyên tắc thời-không, tính nghịch dị và văn học carnaval hóa…

  • THÁI THU LAN

    Émile Zola là một nhà văn hiện thực lớn nhất đồng thời cũng phức tạp nhất của nước Pháp ở cuối thế kỷ thứ 19, là người sáng lập lý luận về chủ nghĩa tự nhiên, là một tấm gương lao động không mệt mỏi, là một chiến sĩ có tinh thần chiến đấu dũng cảm chống chiến tranh phi nghĩa, chống quyền lực tàn bạo và bênh vực quần chúng lao động nghèo khổ.

  • NGUYỄN TÚ ANH - TRẦN KỲ PHƯƠNG

    Trong nghệ thuật Ấn Độ cũng như nghệ thuật Chàm, hình tượng con chuột luôn mang ý nghĩa tốt đẹp, đó là con chuột nhà hay chuột nhắt (mouse), chứ không phải chuột cống.

  • ANĐRÂY GOCBUNỐP (Tiến sĩ ngôn ngữ học Liên Xô)

    Gần đây đã có những khám phá rất có ý nghĩa ở Washington và London, trong những cuốn sách đã yên nghỉ trên các kệ sách thư viện trong cả bốn thế kỷ nay.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG

    Jen học trước tôi hai năm, đàn chị. Cô là thường trú, PGY- 4, tôi là PGY- 2. Trong nghề chúng tôi, hơn nhau một năm đã là tình thầy trò, huống gì hơn hai.

  • LƯU TÂM VŨ
                hồi ký

    LTS : Nhà văn Lưu Tâm Vũ sinh năm 1942, tốt nghiệp sư phạm Bắc Kinh năm 1961, sau đó dạy học nhiều năm ở Bắc Kinh. Truyện ngắn đầu tay Chủ nhiệm lớp đoạt giải thưởng truyện ngắn ưu tú toàn quốc 1978, được coi là tác phẩm mở đầu cho văn học thời kỳ mới.

  • Cách đây 40 năm khi nhà xuất bản Morrow and Avon chi 5 triệu đô la cho James Clavell, tác giả những cuốn tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng như Hồng Kông ngày ấy, Đại tướng quân, Whirlwind, giới xuất bản ở Mỹ choáng váng. Nhưng bây giờ tiền nhuận bút đã vượt xa kỷ lục ấy.

  • ALAN BURNS      

    William Carlos Williams cũng như bất cứ người nào, đến rất gần với việc nhận thức ra lý tưởng mới của chủ nghĩa hình tượng, nhất là trong những bài thơ như “The Great Figure” và “The Red Wheelbarrow”.

  • Đây là một câu chuyện về di dân được viết theo chương trình “Dự án chiếc giày” (The Shoe Project) được khởi xướng thành lập bởi tiểu thuyết gia Katherine Govier, Toronto, Canada. Chương trình này bao gồm việc giúp các phụ nữ di dân viết một câu chuyện 600 từ về kinh nghiệm di dân của mình và lên một sân khấu nhỏ để trình diễn (đọc) câu chuyện đó trước những khán giả trong vùng. “Dự án chiếc giày” được thực hiện ở Antigonish với sự giúp đỡ của tiểu thuyết gia Anne Simpson và nhà biên kịch Laura Teasdale.

  • NHƯ QUỲNH DE PRELLE  

    Tôi đã từng mơ ước về quê nhà để đọc thơ tiếng Việt, để thổn thức cùng thi ca tiếng Việt. Thế mà, ở nơi này, giữa trái tim châu Âu và trong lòng bạn bè quốc tế, tiếng Việt của tôi ngân lên giữa những nhịp điệu, những giọng nói hoàn toàn khác. Và tôi đi đọc thơ, tự bao giờ tôi cũng tự chuyển ngữ những bài thơ của chính mình với bạn đọc ở đây. Đi đọc thơ, bao điều thú vị và những mới mẻ.

  • HÂN QUY

    (Phỏng vấn nhà báo lão thành LÉO FIGUÈRES)

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG

    Một người bạn cũ ở Mỹ kể với tôi rằng gần mười năm nay anh không đi du lịch xa, cũng không về Việt Nam, mặc dù nhớ. Tôi hỏi lý do, anh bảo vì sợ nỗi buồn chán khi phải ngồi trên máy bay mười mấy giờ.