Mọi thông tin liên quan tới người được nhận giải Nobel sẽ chỉ được Viện hàn lâm Thụy Điển tiết lộ sau 50 năm. Giờ đây, sự thật về nhà văn duy nhất từng từ chối giải thưởng văn học danh giá nhất hành tinh đã được công bố.
Nhà văn Jean-Paul Sartre (1905-1980)
Một lá thư được gửi tới Ủy ban Nobel Thụy Điển hồi năm 1964, do chính nhà văn, nhà triết học nổi tiếng người Pháp Jean-Paul Sartre viết, mới đây đã được công bố, trong thư, ông khẳng định rằng mình sẽ từ chối nhận giải Nobel Văn học nếu giải được trao cho ông.
Lá thư này đã đến quá muộn để có thể thay đổi một sự việc hy hữu trong lịch sử trao giải Nobel Văn học. Tin này vừa được truyền thông Thụy Điển chính thức đăng tải.
Lúc lá thư của nhà văn Sartre tới nơi, tên người thắng giải Nobel Văn học năm 1964 đã được ủy ban xét giải đưa ra từ cách đó gần một tháng. Lá thư này chỉ được công bố trước công chúng sau 50 năm diễn ra lễ trao giải, theo đúng quy định của giải Nobel.
Lá thư đã giúp hậu thế hiểu rõ lý do tại sao Sartre quyết định từ chối nhận giải thưởng văn học danh giá nhất thế giới. Cho tới nay, ông là nhà văn duy nhất từ chối nhận giải Nobel Văn học.
Sartre sau này đã giải thích đơn giản rằng ông “luôn từ chối mọi sự tôn vinh”, thực tế, ông cũng đã từng từ chối nhận Huân chương Bắc đẩu bội tinh do Nhà nước Pháp trao tặng hồi năm 1945. Nguyên nhân sâu xa là bởi Sartre luôn sợ rằng những danh xưng, những sự tôn vinh sẽ làm hạn chế tư duy độc lập và khiến ông trở nên gò bó trong những sáng tác và nghiên cứu của mình.
Giờ đây, lá thư của Sartre đã được công bố để đông đảo công chúng được biết sau 50 năm giữ kín theo quy định của giải Nobel. Trong thư, Sartre đã đề nghị ủy ban xét giải đưa ông ra ngoài danh sách những nhà văn được cân nhắc nhận giải.
Trong suốt nhiều năm, nhà văn Sartre đã được công chúng và những người trong giới văn chương coi như một ứng viên tiềm năng của giải Nobel Văn học. Vì vậy, ông đã gửi thư tới Quỹ Nobel vào ngày 14/10/1964, để nói rằng ông sẽ không nhận giải “dù là năm 1964 hay là trong tương lai”.
Tuy vậy, Ủy ban xét giải Nobel Văn học đã thống nhất lựa chọn Sartre là người nhận giải từ ngày 17/9 trước đó. Vì vậy, khi Viện hàn lâm Thụy Điển họp mặt vào ngày 22/10/1964, 18 thành viên hội đồng đã thống nhất sẽ vẫn trao giải cho nhà văn Sartre. Đúng theo những gì đã được đề cập trong thư, Sartre không thay đổi quyết định và đã từ chối nhận giải.
Nếu lá thư của nhà văn Sartre đến trước khi hội đồng họp mặt hồi giữa tháng 9/1964, có thể giải đã được trao cho một nhà văn khác.
Tại thời điểm đó, một số thành viên trong hội đồng trao giải còn khá tranh cãi về tài năng văn chương của Sartre, vì vậy, việc ông từ chối nhận giải Nobel càng làm dấy lên những tranh luận về sau.
Trước đây chỉ từng có một trường hợp tác gia từ chối nhận giải Nobel Văn học, đó là nhà thơ người Thụy Điển Erik Axel Karlfeldt. Nhưng ông đã thành công trong việc thuyết phục các thành viên trong hội đồng không trao giải cho mình hồi năm 1919 bởi khi đó, ông là một thành viên trong hội đồng xét giải.
Về sau, ông lại một lần được trao giải sau khi đã qua đời hồi năm 1931, ở thời điểm này, quy định về việc giải chỉ được trao cho những tác giả còn đang sống vẫn chưa được đưa ra.
Năm 1958, nhà văn người Xô Viết Boris Pasternak cũng từ chối nhận giải Nobel Văn học, nhưng theo nhiều nguồn tin, nhà văn Pasternak đã từ chối nhận giải thưởng này một cách không tự nguyện, vì vậy, trường hợp của Pasternak không giống như nhà văn Pháp Sartre.
Ngoài nhà văn Sartre, chỉ còn một nhân vật nữa từ chối nhận giải Nobel sau khi đã được xướng tên, đó là nhà ngoại giao nổi tiếng của Việt Nam - ông Lê Đức Thọ - người đồng nhận giải Nobel Hòa bình năm 1973 với Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger vì đã thương thảo thành công việc chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam.
Nguồn: Bích Ngọc - Dân Trí
I. VÔLEVIC
Ở đất nước chúng tôi người ta viết rất nhiều Anne Frank, về cuộc đời ngắn ngủi đầy bi thương của cô. Rất nhiều bài báo và những bài bút ký viết về Anne Frank và tập "Nhật ký" của cô.
VAXIN BƯCỐP
IRINA RISINA thực hiện cuộc trao đổi và ghi lại trên báo Văn Học 14-5-1986.
Trong dịp kỷ niệm 70 năm Cách Mạng Tháng Mười, Nhà hát chính kịch và hài kịch Matxcơva ở Taganca lại đưa lên sân khấu một vở cũ trong kịch mục của mình.
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG
Người bạn gái Nga đầu tiên tôi quen ở Mátxcơva là Anna Platônôpna, một cô gái có bộ tóc đen nhánh xõa lên đôi vai tròn kiểu tóc thề, đôi mày đen vẽ nhánh cong trên gương mặt lúc nào cũng tỏa ra cái chất trong sáng của tâm hồn, nói tiếng Việt thành thạo với giọng mũi thoảng nhẹ thực dễ thương.
LTS: Ông Nguyễn Thạch Giang từ Hà Nội đã gửi cho chúng tôi bài viết này kèm theo một bức thư rất chí tình. Bài viết là một tư liệu quí và thú vị, lại rất phù hợp với số báo kỷ niệm 70 năm Cách mạng tháng 10. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc bài viết và nội dung bức thư của ông Nguyễn Thạch Giang, thay cho lời tòa soạn.
"Tôi viết văn không nhằm đoạt giải thưởng hay sự công nhận. Tôi cảm thấy vinh dự, nhưng tôi nghĩ rằng phần thưởng này là thành tích chung của các nhà văn châu Phi".
MAI KHẮC ỨNG
Tùy bút
Từ Luân Đôn máy bay của hãng hàng không British Airways đưa chúng tôi sang Boston vào chiều ngày 10 tháng 9 năm 2001. C. David Thomas, Giám đốc trường Mỹ thuật Đông Dương bên Mỹ đón chúng tôi về nhà riêng tại 20 Welster Court Neuton Centre.
Đó là tiêu đề cuộc hội thảo giữa hai đoàn nhà văn Liên Xô và Việt Nam tổ chức tại trụ sở Hội Nhà văn Liên Xô ở Mátxcơva buổi đầu tháng 4-1987.
HIỆU CONSTANT
Reng reng… chuông điện thoại reo vang. “A lô, tôi nghe đây!” “Bọn anh vừa đến Paris rồi, hiện đang đi ăn sáng, khi mô mà kiếm quán ăn sáng ở Paris khó hỉ! Đi hoài mới thấy!”, là giọng của nhà văn Tô Nhuận Vỹ.
NGUYỄN CHIẾN
Không bao giờ Graham Green kể về các tác phẩm của mình trước khi ông đặt dấu chấm hết và đưa chúng tới nhà Xuất bản.
Vicki Convington (sinh ngày 22/10/1952) là một tiểu thuyết gia nổi tiếng của miền Nam Hoa Kỳ (Về dưới mái nhà/ Gathering Home, Chim thiên đường/ Bird of Paradise, Chuyến đêm về nhà/ Night Ride Home, và Nhà trọ cuối cho đàn bà/ The Last Hotel for Women).
DƯƠNG VĂN TƯỜNG
Truyện ký
Rời Vancouver, chúng tôi không dùng máy bay mà rủ nhau xuyên biên giới qua Mỹ bằng chiếc Acura. Nỗi buồn xa Canada vơi đi với người bạn đồng hành.
HIỆU CONSTANT
Cuộc đời và sự nghiệp
François Cheng sinh năm 1929 tại thành phố Nam Xương. Ông là nhà văn, nhà thơ, dịch giả, nhà nghiên cứu thư pháp, giáo sư đại học tại Pháp.
LTS: Valentin Raxputin là nhà văn lớn Xô Viết năm 1987 vừa tròn 50 tuổi. Các tác phẩm của ông như "Tiền cho Maria", "Hạn chót", "Sống và nhớ lấy", "Vĩnh biệt làng Matiôra", "Cháy nhà"... nổi bật lên niềm băn khoăn lo lắng cho số phận con người.
... Mỗi lần tôi đặt dấu chấm hết cho một tác phẩm, tôi nghĩ đó là tác phẩm hay nhất mình đã viết vì nó tương ứng với tuổi mình và thời điểm đó và tôi cho rằng trong khi đi xuyên qua cuộc đời, tôi bỏ lại sau lưng những cuốn sách của mình....
PHẠM XUÂN PHỤNG
Bút ký
Ngày 14 tháng 02 năm 2012, đoàn du lịch chúng tôi từ khách sạn Ramayana ở thủ đô Vientiane của nước bạn Lào qua cửa khẩu Laosamay chuẩn bị làm thủ tục nhập cảnh Thái Lan.
A. L. BARDACH
Đạo sư hiền hòa Swami Vivekananda, vị tăng sĩ xứ Bengal đã mang phép tu yoga tới Hoa Kỳ, đang thiền định ở London, năm 1896.
Thơ Hàn Mạc Tử (1912-1940)
Nhạc Walther Giger & Camille Huyền
Tiếng hát Camille Huyền
Ghi ta Walther Giger
LGT: Ursula Wills-Jones lớn lên ở Gloucestershire và sống ở Bristol. Người dân và các địa danh ở vùng Tây - Nam nước Anh là nguồn cảm hứng trong các sáng tác của bà. Bà viết truyện ngắn, kịch và tiểu thuyết. Các tác phẩm của bà được phát trên Radio 4 của BBC và diễn ở Bristol Old Vic. Bà cũng là cộng tác viên của chuyên mục Comment is Free của tờ báo Guardian.
TRẦN HUYỀN SÂM
Ở Pháp, vào mùa thu, người ta gọi là mùa của văn học/ La rentrée littéraire. Đấy là thời điểm mà bạn đọc và báo chí xôn xao về các giải thưởng.