Tiếp nhận tác phẩm văn học

10:46 17/06/2009
MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

Đọc thơ không phải chỉ nhằm biết thơ nói gì mà phải hiểu được thơ nói như thế nào?. Câu thơ ấy, đoạn thơ ấy, bài thơ ấy nói gì, tâm trạng thế nào, hình ảnh, ngôn ngữ, nhịp điệu... ra sao? Thơ phải tạo ra rung động ở người đọc từ nhiều phía: ý, tình, hình, nhạc ... Như vậy khi phân tích một hình ảnh, một cảnh, một bức tranh trong thơ, nhất thiết không thể bỏ qua những yêu cầu trên. Trừ khi anh tồi, thiển cận, không hiểu thơ, chỉ chăm chăm đi vào giải thích ý, nghĩa mà "nương nhẹ các biện pháp nghệ thuật như nhịp điệu, điệp từ, điệp ngữ..." (Cần lưu ý ở đây: hình ảnh, cảnh, bức tranh là ở cấp độ từ, chứ không phải cấp độ khái niệm)(1).

Có một điều quan trọng, người đọc thơ không thể bỏ qua. Sau khi đọc bằng mắt rồi, lại cần phải nhắm mắt lại mà đọc bằng tấm lòng, bằng trái tim xem xem ở đấy nhà thơ bộc lộ tâm trạng gì, muốn thông báo thẩm mỹ gì với người đọc. Cái khó là ở đấy, không thể nói chung chung.

Tất nhiên, tâm trạng thế nào đã hiện ra ở thể thơ, hình ảnh, câu chữ, nhịp điệu... Một lần tôi hỏi thi một trò.

- Em hãy phân tích đoạn thơ này.

Trò nhanh nhẩu trả lời:

- Thưa thầy: "Đoạn thơ tổng hợp và đồng hiện hàng loạt tâm trạng khác nhau"

Tôi khẽ gật đầu để em yên tâm, nhưng nghĩ thầm: đây là một trò láu, đại ngôn, nhưng không biết gì về thơ. Tôi động viên tiếp:

- Em nói cụ thể hơn được không?

- Thưa thầy, vâng, vâng...

Rồi em im bặt. Xét đến cùng thì vẫn là lỗi ở tôi, ở người dạy.

Theo tôi muốn hiểu thơ, người đọc cần có một hiểu biết tối thiểu về loại hình này như thể thơ, vần, nhịp điệu, các biện pháp nghệ thuật tu từ, ngôn ngữ thơ... nếu không sẽ lúng túng, tưởng mình hiểu hoá ra lại chẳng hiểu gì. Nắm chắc những cơ bản ấy mới có thể hiểu thơ xưa, thơ nay, đặc biệt là thơ đương đại, đang có những chuyển động mạnh mẽ cả về nội dung, hình thức trên cơ sở một triết - mỹ mới.

Cách truyền đạt những hiểu biết về thơ bằng nói, bằng giảng bài cho học trò là ở dạng nghe. Cách truyền đạt bằng văn bản - viết thành bài (ở dạng nhìn) yêu cầu cao hơn. Giấy trắng mực đen đấy, người ta nhìn, người ta đọc, lật đi lật lại, thì câu chữ, diễn đạt phải cẩn thận hơn. Để người đọc thấy được cái đúng, cái hay, cái đẹp của thơ, bài viết cần một văn phong thích hợp: gợi cảm, giàu hình ảnh, sử dụng từ sinh động, không thể chỉ dùng những khái niệm khô cứng, sách vở để phân tích thơ, bình giảng thơ... Tôi đã đọc nhiều bài phân tích thơ có những sáng tạo từ làm câu văn bớt đơn điệu, gây hứng thú cho người đọc. Ví như: "Bài thơ Tây Tiến - tượng đài bất tử về người lính vô danh", "Chúng ta hãy ngắm kỹ lại những chân dung La Hán khắc bằng ngôn ngữ của Huy Cận" (Vũ Quần Phương), "Bức tranh cuối bài Việt Bắc, theo ý tôi, là của một danh họa" (Xuân Diệu)... Xin nhớ: tượng đài, chân dung, bức tranh ở đây là từ, không phải là khái niệm.

Phân tích bài thơ Tống biệt hành của Thâm Tâm, tôi nhớ Lê Sử có bài viết hay (Báo Giáo dục và Thời đại số 68 ngày 6-6-2002). Cách viết uyển chuyển, tinh tế, văn có hồn, khả năng thẩm thơ tốt. Đây chính là yêu cầu hàng đầu đối với người phân tích, bình giảng thơ. Chỉ tiếc ở cuối bài, khi nói đến 4 câu thơ cuối của Tống biệt hành, tác giả bài viết hiểu chưa đúng, chưa trúng: "Ở khổ thơ mở đầu, người đưa tiễn ngạc nhiên vì người ra đi có thể "dứt bỏ tình riêng" để lên đường. Bài thơ có nhiều khoảng trống, nhiều điểm lặng, nhiều bước ngoặt đòi hỏi sự sáng tạo nơi người tiếp nhận (...). Người ra đi vẫn mang trong lòng nỗi đau giằng xé vì thế mới có trạng thái khinh bạc đến tàn nhẫn và cả cái trạng thái buồn bã hư vô"

                        Người đi? Ừ nhỉ, người đi thực!
                        Mẹ thà coi như chiếc lá bay,
                        Chị thà coi như là hạt bụi,
                        Em thà coi như hơi rượu say.

Về 4 câu thơ cuối này, có người nghĩ người ra đi đối với mẹ, đối với chị, đối với em như thế. Chắc Lê Sử cũng nghĩ như thế nên mới ngạc nhiên, vì người ra đi có thể "dứt bỏ tình riêng", "có trạng thái khinh bạc đến tàn nhẫn". Nhà văn Bùi Hiển lại hiểu mấy câu thơ trên "theo ý nghĩa ngược lại", tức là đối với người ra đi thì mẹ hãy coi như chiếc lá bay, chị hãy coi như hạt bụi, em hãy coi như hơi rượu say (Văn nghệ số 8 tháng 2-1992).

Theo tôi, cách hiểu 1 người ra đi sẽ mang tiếng oan là "khinh bạc đến tàn nhẫn". Không thể có người nghĩ về mẹ, về chị, về em của mình như thế được. Cách hiểu 2, cũng không thoả đáng. Mẹ, chị, em nỡ nào lại nghĩ đến người thân ruột thịt của mình như thế? Có lẽ nên chấp nhận cách hiểu 3: Cả bài thơ là lời người đưa tiễn. Vậy người đưa tiễn nghĩ thế, thổ lộ như thế. Và người đưa tiễn nói như thế lại là lời an ủi cho cả kẻ ở, người đi.

Suy nghĩ của tôi, cách tiếp nhận bài thơ Tống biệt hành của tôi, cũng đã diễn ra qua một quá trình. Nhưng biết đâu còn có điều mình chưa hiểu cặn kẽ, chưa thật đúng với tâm trạng Thâm Tâm. Tiếp nhận tác phẩm thơ quả thật là khó. Không ai và lại càng không nên cho mình là người hiểu biết hơn người.

30-7-2003
   M.G.L
(177/11-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN MẠNH TIẾN

    “Sự định cơ cấu đã trở nên cái phần cám dỗ nhất của phê bình”
                             Đ.L.V

  • NGUYỄN QUANG HUY

    Nỗi buồn sáng tạo dẫn đưa nghệ sĩ đi vào bề sâu cho tới khi nó tìm thấy trong vô thức mình cái nguyên tượng có khả năng bù đắp lại cao nhất sự tổn thất và què quặt của tinh thần hiện đại.
                                                           (C. G. Jung)

  • ROLAND BARTHES

    (Nguồn: Roland Barthes. Essais critiques. Seuil, 1964, tr. 246-251)

  • THÁI VŨ

    Thiệt tình khi cuốn Những ngày Cần Vương chưa ra mắt bạn đọc, tôi chưa muốn có ý kiến, vì cuốn Huế 1885 chỉ là phần đầu khi phản ánh một giai đoạn lịch sử mất nước do triều Nguyễn gây nên với bao nỗi đắng cay, đau xót của mỗi người dân Việt Nam ta lúc đó, đâu chỉ riêng gì của người dân xứ Huế - Bình Trị Thiên.

  • Nhà văn Nguyễn Mộng Giác vừa qua đời lúc 10 giờ 15 phút tối ngày 2 tháng 7 năm 2012. Tạp chí Sông Hương vừa nhận được bài viết của nhà phê bình Đặng Tiến, xin giới thiệu cùng bạn đọc, như một nén nhang tưởng niệm…

  • Ta sẽ khởi đầu bằng những gì xưa nay vẫn là nổi tiếng nhất của thơ Đinh Hùng, gần như đương nhiên được coi là đặc trưng Đinh Hùng nhất. Để từ đó thấy được nét độc đáo đầu tiên, cũng đồng thời là sự trớ trêu đầu tiên (cạm bẫy đầu tiên; bởi vì thơ Đinh Hùng là thơ của cạm bẫy trùng trùng tiếp nối; thơ ấy rất đáng sợ): nổi bật không hề là đặc trưng.

  • TÂM VĂN

    Hàn Phi tử - Pháp gia thời Chiến quốc viết rằng: “Văn hữu lại tuy loạn nhi hữu độc thiện chi dân, bất văn hữu dân loạn nhi hữu độc trị chi lại, cố minh chủ trị lại bất trị dân”.

  • VŨ XUÂN TRIỆU

    Là một cây bút có tên tuổi của văn đàn dân tộc tuy nhiên tác phẩm của Vũ Bằng lại gặp khá nhiều trắc trở trên con đường đến với bạn đọc. Mãi sau này khi nhà văn từng mang tiếng “dinh-tê” này được công nhận là một chiến sĩ công báo hoạt động trong nội thành, thì các tác phẩm của ông mới dần dần được công bố.

  • TRẦN ĐỘ
          (Trích)

    … Bây giờ ta mạnh dạn bước sang bàn một vấn đề còn khó khăn hơn: "Bản sắc dân tộc trong văn hoá Việt Nam là gì?" hay "Bản sắc văn hoá của dân tộc Việt Nam là gì?".

  • NHẬT CHIÊU

    Thơ Haiku của Nhật Bản là một phần tài sản trong kho tàng văn hóa Á Đông vĩ đại và giàu sang. Chúng ta là người thừa tự nền văn hóa ấy nhưng còn chưa khai thác di sản của nó đúng mức như nó xứng đáng. Nhiều thành quả và tinh hoa của nó còn chờ đợi chúng ta.

  • RAMAN SELDEN

    Những nhà văn và độc giả nữ luôn phải làm trái ngược với thói đời. Nhà triết học Aristotle tuyên bố rằng: “Đàn bà là đàn bà bởi một sự thiếu thốn nhất định về những phẩm chất”, và Thánh Thomas Aquinas tin rằng “phụ nữ là một người đàn ông không hoàn hảo”.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊN

    Tiểu thuyết ngày nay đang đi tìm những câu trả lời cho những vấn đề chưa được giải quyết của thực tại, nhưng bản thân sự tìm kiếm tinh thần trong tiểu thuyết trước hết phụ thuộc vào chiều sâu của sự nhận thức các vấn đề đó, vào sự tỉnh táo của người nghệ sĩ khi đứng đối mặt với những mâu thuẫn của cuộc sống hiện thực.

  • LGT: Phong trào đô thị là một mũi giáp công chiến lược không thể tách rời trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược do Đảng lãnh đạo bắt đầu từ Hiệp định Genève ký kết (20 - 7 - 1954). Sẽ không có một cái nhìn đầy đủ và toàn diện lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975 nếu không có một công trình nghiên cứu nghiêm túc về phong trào đấu tranh chống Mỹ tại các đô thị miền Nam nói chung, tại Huế – miền Trung nói riêng.

  • INRASARA

    1. Toàn cầu hóa là một hiện thực diễn ra trên phạm vi toàn thế giới, từ hai thập kỉ qua. Một hiện thực lồ lộ trước mắt ta, bên cạnh ta, ngay trong nhà và ở chính bản thân ta, dù ta là công dân ở đất nước tiên tiến hay dù ta chỉ là một thành phần thuộc sắc dân thiểu số cư trú vùng sâu vùng xa trong một đất nước đang phát triển chưa qua giai đoạn hiện đại hóa.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG Sau này lúc về già, Nguyễn Trãi đã có lần nhắc lại hoài bão lập chí thời trẻ của mình bằng một hình tượng đẹp lạ lùng, "nhìn ánh sáng, muốn học chim phượng ca hát mặt trời lên" (Lãm huy nghi học minh dương phượng).

  • VIỄN PHƯƠNGKhi văn chương tham dự vào những mê lộ mới, mê lộ của nhận thức luận phức hợp hôm nay, khi nhà văn không còn hứng thú trong việc lục lọc, săm soi lại các bảng giá trị trong truyền thống thì tất yếu văn chương sẽ bước vào những cuộc chơi mới.