Thuốc trường sinh cho Huế

08:22 04/02/2010
HỒ VĨNH       Phóng sựTôi đứng trên nhà bia lăng Minh Mạng thì nghe kiến trúc sư Kazimierz Kwiatkowski (Kazik) đột ngột qua đời vì bệnh tim. Tôi bàng hoàng lặng người trong giây lát rồi đạp xe về Thế Miếu nơi công trình Kazik đang trùng tu.

Hiển Lâm Các - Ảnh: hue.vnn.vn

Đây là một dự án do Chính phủ Ba Lan tài trợ với kinh phí 1.117.000 frans Thụy Sĩ. Đứng giữa công trình Thế Miếu ngổn ngang vật liệu xây dựng, tôi nghĩ định mệnh đã vội lấy đi một người bạn thủy chung luôn mang trong mình một hoài bão "phục cổ" đến với di sản văn hóa Việt Nam.

Thế Miếu được xây dựng vào năm 1821 để thờ các vua Nguyễn, gồm tiền doanh 11 gian và chính doanh 9 gian, 2 đầu có 2 chái; bộ khung bằng gỗ lim dựng trên mặt nền có bề dài 55m, bề ngang 28m. Trải qua thời gian dài, chiến tranh và mối mọt tàn phá nên kiến trúc gỗ của Thế Miếu xuống cấp trầm trọng. Trong quá trình trùng tu, tôi thấy các chuyên gia Ba Lan cố gắng cho giữ lại nguyên gốc và chỉ thay thế các cấu kiện cũ đã bị hỏng trên 50%. Trước đây 3 cột bê tông do Chi nhánh Bảo tồn cổ tích Huế và Ty Kiến thiết Thừa Thiên Huế (cũ) đưa vào năm 1963 để thay cột gỗ bị hư hỏng. Nhưng trong lần trùng tu này. Bartek con trai của Kazik nói: "Chúng tôi phải tuân thủ công ước quốc tế về nguyên tắc bảo tồn". Do đó 3 cột bê tông được "bóc ra" thay cột gỗ trả lại cho Thế Miếu dáng tích nguyên gốc.

Tôi qua Hiển Lâm Các. Đây là một công trình được Trung tâm Bảo tồn Di tích cố đô Huế tu bổ với sự bảo trợ của UNESCO và sự gíup đỡ kỹ thuật của Phône- Poulenc trong việc xử lý phòng chống mối.

Hiển Lâm Các được xây dựng vào năm 1821 thời Minh Mạng, đã qua nhiều lần nâng cấp và trùng tu vào những năm 1936, 1958, 1984, 1986. Lần trùng tu này do Viện Khoa học Công nghệ Xây dựng thiết kế và tổng thầu thi công trùng tu với nguồn kinh phí do Chính phủ Việt đầu tư 3,4 tỉ đồng. Hiển Lâm Các là công trình bằng gỗ có 1 tầng trệt và 2 tầng lầu, cao 13,6m. Nếu kể cả nền cao 1,5m thì công trình có chiều cao 15,1m. Tôi leo lên tầng 3 có kích thước mặt bằng 5 x 4,70m thì thấy công nhân của VKHCNXD đang dùng màu khoáng vật, thực vật sơn son thếp bạc phủ hoàng kim trên những cánh cửa thượng song hạ bản. Tôi hỏi một công nhân: "Anh thấy cáp chống sét đặt ở vị trí nào?". Họ chỉ tay trên bờ nóc, nói: "Cáp chống sét đặt chìm trong bờ nóc, kim thu sét lắp trong bầu Càn Khôn".

Tôi trở xuống tầng 1 thì thấy Sophie Nguyễn Khoa, chuyên gia chống mối của hãng Rhône- Poulenc hướng dẫn công nhân bơm thuốc toàn bộ mặt nền. Sophie Nguyễn Khoa cho biết thuốc TERMIDOR 25 EC dùng chống mối dưới đất hoặc trong tường sau khi hòa loãng 2,5 lít TERMIDOR 25 EC vào 100 lít nước. Và liều dùng là 5 lít bơm phủ trên 1m2. Còn các cột gỗ được khoang sâu 4 lỗ rồi tiêm vào 1 lít FIPRONIL trên mỗi cột. Được biết mọi phí tổn do Rhône- Poulenc đài thọ và số lượng hóa chất cần thiết được bộ phận Hóa Nông của Rhône- Poulenc cung cấp miễn phí tới 1 triệu USD

Trong một bài viết "Lời thở than của những di sản" tác giả Binh Nguyên đã hiểu lầm và cho rằng: "Chúng tôi lại vô cùng ngỡ ngàng khi công trình Hiển Lâm Các lại được tôn tạo với mái tôn sóng vuông khá hiện đại" (Tuổi trẻ chủ nhật 20.04.1997). Còn tác giả Hải Châu lại viết "việc trùng tu đúng nguyên bản chưa thật sự được tôn trọng ở một số di tích Hiển Lâm Các nay đã "được" phủ mái tôn sóng vuông" (Thanh Niên, 22.03.1998). Nhưng thật ra đây là lần trùng tu đại quy mô nên Bộ Văn hóa- Thông tin đã cấp ngoài kinh phí dự án 500 triệu đồng để trang bị bộ giác tổ hợp có mái che (tôn sóng vuông). Theo phó tiến sĩ Trần Minh Đức và kỹ sư Nguyễn Tiến Bình- VKHCNXD cho biết nhờ có mái che nên trong suốt quá trình thi công Hiển Lâm Các được che chắn và chống đỡ chắc chắn.

Rời Đại Nội tôi đạp xe cùng chiều với hai du khách Việt kiều người Pháp lên lăng Tự Đức. Đi giữa đường họ hỏi tôi ở Huế có bao nhiêu công trình kiến trúc? 1.200 công trình, tôi trả lời. Họ ngạc nhiên rồi ồ lên: "Vậy ư!". Tôi giải thích phần lớn các công trình kiến trúc đã trở thành phế tích do chiến tranh + thiên tai + mối mọt = sụp đổ. Hiện nay theo thống kê thì di tích Huế chỉ còn 480 công trình, trong đó có 350 công trình được chọn lọc để bảo tồn.

Tôi đứng thất leo trên cái thang để xem những người thợ nề lợp ngói tráng men ở Chấp Khiêm điện- điện thờ vua Kiến Phúc (1883-1884) một công trình kiến trúc ở Khiêm Lăng (lăng Tự Đức). Dưới ánh nắng đổ lửa tôi thấy họ phơi cái lưng mặc cho mồ hôi đổ trên các thanh rui mái bằng gỗ. Bên dưới, phía trước điện nơi có các cột gỗ đỡ bộ mái vừa lợp xong, một tổ thợ sơn người Bắc Ninh đang tỉ mẩn công việc sơn son thếp bạc phủ hoàng kim trên các con bọ bằng gỗ có gia cố bởi các đinh sắt. Anh Nguyễn Đức Huynh phụ trách về kỹ thuật và pha chế sơn mãi đeo bám sơn ở một cột gỗ kiền có màu cánh gián. Do công việc phải sơn lót liên tục, tôi không thể cắt dòng chảy cô đặc công đoạn của công trình sơn. Khi anh Huynh nghỉ tay để pha chế sơn, tôi chớp thời cơ hỏi: "Xin anh cho biết đôi điều về công nghệ sơn thếp truyền thống?" "Sơn ta được khai thác từ mủ cây sơn. Quy trình làm sơn không thể vội, đòi hỏi có thời gian dài. Sơn mỗi cột gỗ thường từ 10 đến 13 lớp và làm qua rất nhiều công đoạn- Sơn xong một lớp phải mài rồi sơn lại lớp khác. Còn dùng sơn màu thì tùy thuộc vào từng công trình. Ở đây chúng tôi sơn màu cánh gián trên 16 cột gỗ kiền để làm nổi chất liệu màu gỗ". Có lẽ anh đã ký tên vào các công trình di tích ở Huế? Tôi hỏi "Vâng tôi đã tham gia sơn son thếp vàng 3 bộ án thờ các vua Hàm Nghi- Thành Thái- Duy Tân và 138 cánh cửa ở Thế Miếu, bửu tán (điện Thái Hòa), Hưng Miếu, nhà bát giác (Đại Nội), bộ án thờ lăng Gia Long"

Cách Chấp Khiêm điện khoảng 150m là công trình Ôn Khiêm đường (nhà cất giữ đồ dùng của vua) vừa mới hạ giải trơ ra bộ xương bằng gỗ. Tôi đứng trên mặt nền lổn chổn vừa được xới lên để chống mối. Thấy tôi thò tay vào cột gỗ do mối ăn thủng, anh Thân Văn Trọng, tổ trưởng bảo vệ lăng Tự Đức nói: "Mối là hiểm họa chính đối với các công trình kiến trúc ở đây. Cho nên vừa qua Trung tâm Tài nguyên Môi trường Công nghệ trực thuộc Đại học Huế tiến hành chống mối bằng chế phẩm vi sinh cho 33 cây cổ thụ gồm 2 cây xoài, 1 cây mít, 1 cây me, 29 cây thông nằm ở phía trái Thể Khiêm đình. Riêng trong điện Hòa Khiêm và các công trình kiến trúc khác do Trung tâm Bảo tồn Di tích cố đô Huế phun thuốc chống mối.

Anh Lê Trọng Sơn, phó chủ nhiệm khoa Sinh học trường Đại học Khoa học Huế cho tôi xem danh sách các loài mối đã phát hiện ở Thừa Thiên Huế có tới 40 loài và 1 phân loài thuộc 3 giống, 3 họ, trong đó có 3 loài lần đầu tiên phát hiện ở Việt Nam và 1 phân loài mới cho khoa học. Anh Sơn cho biết thêm thành phần loài mối có ở khu di tích Huế gồm 20 loài, 11 giống, 3 họ. Riêng lăng Tự Đức có số lượng loài lớn nhất (14 loài), có mặt hầu hết các loài mối hại kiến trúc và cây cối.

Tôi đến Minh Lâu- lăng Minh Mạng, một công trình kiến trúc đang trong quá trình trùng tu. Nhìn vào hiện trạng của Minh Lâu, tôi thấy nền tòa nhà bị lún, các cấu kiện gỗ bị mối mọt. Được biết công trình này do tập đoàn American Express tài trợ 80.000 USD. Rời Minh Lâu, tôi đứng xem mô hình phục chế theo kiểu đóng cọc cát trong xử lý móng đất sét tại Hữu Tùng Tự. Đây là một công trình kiến trúc gỗ nằm trên nền đất cao bó vỉa gạch Bát Tràng. Đứng bên tôi, anh Đặng Hữu Nghệ, tổ trưởng bảo vệ lăng Minh Mạng kể: "Khi khai quật nền móng Hữu Tùng Tự, các chuyên gia Nhật Bản và Việt Nam đã phát hiện kỹ thuật đóng cọc cát có cách đây hơn 150 năm!". Theo các chuyên gia trùng tu di tích cổ cho biết kỹ thuật đóng cọc cát vẫn

được áp dụng vì nó giữ cho nền nhà được ổn định. Trong quá trình trùng tu Hữu Tùng Tự hơn 200 cấu kiện đã được thay thế theo đúng các nguyên tắc và phương pháp cổ truyền. Nhưng có điều trên các cấu kiện đã thay thế có đóng đầy rẫy những chữ số "1997". Một du khách khi tham quan lăng Minh Mạng thắc mắc "Kiến trúc cổ mà lại ghi chữ số!". Tôi sực nhớ ở điện Minh Thành- lăng Gia Long trong lần trùng tu năm 1922 khắc ghi "Khải Định thất niên cung tu". Chỉ cần một bảng gỗ đề năm trùng tu dù trải hằng trăm năm hậu thế vẫn mãi ghi nhớ.

Trở về kinh thành Huế, tôi đi vào công trình trùng tu cửa Quảng Đức (còn gọi là Cửa Sập) để xem kỹ thuật dùng chất kết dính trong xây dựng. Tôi gặp anh Nguyễn Xuân Thủy, phụ trách thi công và anh cho biết công trình trùng tu cửa Quảng Đức do Viện Khoa học Công nghệ xây dựng thiết kế và trực tiếp tham gia thi công. Trong khi quan sát và hỏi chuyện những công nhân, tôi nảy ra ý định tìm hiểu thêm về việc xử lý- gia cố phần nền móng, kiến trúc sư Phùng Phu, phó giám đốc Trung tâm Bảo tồn Di tích cố đô Huế cho biết: "Do bị trận lụt năm 1953 nước xoáy làm xói lở phần nền móng, nên lần trùng tu này phải gia cố bằng hệ bản móng bê tông chịu lực năm đến sáu chục tấn. Còn phần trên thì dùng vật liệu truyền thống, gạch vồ, gạch Bát Tràng, ngói hoàng lưu ly, vôi vữa tô trát"

Leo lên tầng 2 vọng lâu cửa Quảng Đức, tôi dán mắt vào hai cửa tròn có gắn hình chữ "thọ". Tôi suy nghĩ mãi mới đọc được tư tưởng của tiền nhân: Bổ lão hoàn tồn.

Cố đô Huế, tháng 8-98
H.V
(120/02-99)




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HÀ MINH ĐỨC                   Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.

  • BĂNG SƠN           Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.

  • PHAN THUẬN THẢO                Chiều chiều trước bến Vân Lâu                Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm,                Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông.                Thuyền ai thấp thoáng bên sông,                Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non.                                              (Ưng Bình Thúc Giạ)

  • LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!

  • BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm

  • MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.

  • VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.

  • HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.

  • MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.

  • VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.

  • NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar  M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                       Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.

  • TÔN NỮ  KHÁNH TRANG              Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.

  • TRƯƠNG THỊ  CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.

  • NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.

  • BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.

  • NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.

  • PHAN THUẬN AN            Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương.                                              (Bùi Giáng)

  • NGUYỄN VĂN THỊNHCũng như trên cả nước, trước cách mạng tháng Tám, làng (tên gọi chữ Hán là xã), ở Thừa Thiên Huế là một đơn vị cơ bản trong tổ chức hành chính của các vương triều.