Tâm thể thời đại được định giá ở tầm vĩ mô như là sự cộng thông về khía cạnh tâm lý những đặc trưng cơ bản nhất của thời đại, cái mà mỗi chúng ta đang hàng ngày, hàng giờ, từ hành vi đến giấc mơ sống trong và sống cùng với nó như là môi trường tâm lý vừa khả biến vừa bất khả biến. Thoạt nhìn, nhiều người tưởng rằng thời đại chỉ là nhân tố khách quan mang lại đề tài cho tác phẩm văn chương nói chung, cho tiểu thuyết nói riêng. Vâng! Xét một khía cạnh nào đó có thể đúng. Song, nếu nhìn sâu hơn, thời đại như một thực thể tâm lý, nó mang đến cho tác giả, tác phẩm và công chúng của nó nguồn cảm hứng chủ đạo, được coi như là một trong những nhân tố đầu tiên, quan trọng nhất để tạo dựng nên tác phẩm văn chương nghệ thuật. Ở phương diện này tâm thể thời đại có ý nghĩa như là sự quyết định đầu tiên đối với sự phát sinh và phát triển của tiểu thuyết. Những năm tháng chiến tranh, sức mạnh của cả dân tộc là quyết tâm đánh giặc cứu nước, vì sự tồn vong của giống nòi. Những chiến công hiển hách luôn dội hưởng vào tâm trí của mọi thành viên trong cộng đồng, mọi lúc mọi nơi, mọi lứa tuổi. Tất cả điều đó đã tạo nên cảm hứng thường trực đối với cả các nhà tiểu thuyết lẫn công chúng. Những người cầm bút thời chiến tranh, dù là người cầm súng trực tiếp đối mặt với kẻ thù ngoài chiến tuyến, hay là người làm những công việc thầm lặng chốn hậu phương đều có cùng một nhịp sống chung với dân tộc và thời đại. Anh ta thấm đẫm từng hơi thở, từng nhịp đập trái tim, cùng cộng thông với số phận của cả cộng đồng. Trong chiến tranh giữ nước, không cho phép bất cứ ai tự tách mình, quay lưng lại cộng đồng, nếu như anh ta không cố tình chuốc lấy số phận bi kịch như người anh hùng Asin trong trường ca của Homere. Cuộc chiến tranh giải phóng là điểm hẹn của tất thảy mọi người, cả những người cầm súng và những người cầm bút, những người trực tiếp chiến đấu và những người phục vụ chiến đấu, không phân biệt đẳng cấp, tôn giáo, chính kiến, lứa tuổi hay giới tính... Thành thử chỗ đứng, tầm quan sát và cả những thúc bách bên trong đối với người cầm bút đã được tạo dựng và xác định ngay từ trong ý thức, đến quá trình thai nghén và cuối cùng là việc phản ánh sự việc và con người trong cuộc chiến đó thành tác phẩm văn chương. Sự trải nghiệm cá nhân đối với người cầm bút là những tấm vé bảo hiểm bằng vàng đối với sự thành công của tác phẩm. Trong điều kiện như vậy, nhà tiểu thuyết giống như là một chiếc máy photocopy đối với lịch sử dân tộc và thời đại mà anh ta sống và viết.
Anh ta chỉ là người ghi nhận những lợi ích, tâm tư, tình cảm, những khát vọng và số phận lịch sử của cộng đồng, trong đó chính bản thân anh ta, cũng là một cá nhân hiện hữu. Khi nhà tiểu thuyết phản ánh quyền lợi và khát vọng của anh ta hay của một nhóm người nào đó cũng chính là anh ta đã nói lên được quyền lợi và khát vọng chung cho cả cộng đồng. Một chiến công của đồng đội, một chiến thắng từ mặt trận hay tin về một người bạn ngã xuống nơi chiến hào, người cầm bút đều có thể sẻ chia cả những niềm vui và nỗi buồn đó với tư cách của người trong cuộc. Và anh ta tự mình phải lãnh trách nhiệm ghi nhận nó. Những đặc trưng của thời đại như vậy có một lực hấp dẫn thần kỳ, cuốn hút nhà tiểu thuyết hướng ngoại, không cho phép anh ta tự thu mình lại theo kiểu vơ vào hay cấy ghép các quyền lợi cá nhân vị kỷ xa lạ và đối lập lại với quyền lợi chung của cả cộng đồng. Động cơ viết để trở thành nổi tiếng, viết để in cho có nhiều đầu sách, bán được nhiều tiền là hoàn toàn xa lạ với những người cầm bút trong những năm chiến tranh. Ngược lại anh ta viết là để được tận hưởng những hạnh phúc lớn lao, cùng những khổ đau quằn quại, những mất mát hy sinh của đồng bào, đồng chí mình. Thời ấy, viết còn là để giải toả các xung năng về số phận và khát vọng của cả cộng đồng bị dồn nén chất chứa và tích tụ trong bản thân người cầm bút. Còn công chúng luôn mở rộng vòng tay chào đón những cuốn sách thể hiện được tầm tư tưởng của thời đại và cũng là quay hướng về phía họ. Con người cá nhân hoàn toàn vắng mặt trong tiểu thuyết thời chiến tranh. Từ người cán bộ chỉ huy, anh lính nơi mặt trận, chị dân quân, cô giao liên, những bà mẹ chiến sỹ,... tất cả đều có một mẫu số chung là tinh thần yêu nước thương nòi, là lòng dũng cảm chiến đấu chống lại kẻ thù, là đức hy sinh quên mình vì nghĩa cả, lòng nhân,... không một ai so bì tị nạnh. Cái mẫu số chung ấy có thể đem đặt cho bất cứ ai, ở đâu, lúc nào, tôn giáo gì, tuổi tác bao nhiêu,... đều là đáp số đúng. Cũng vì thế, chưa bao giờ tiểu thuyết Việt lại nhiều như thời kỳ này. Chiến tranh đồng nghĩa với bom đạn, chết chóc hy sinh. Vậy mà, bao thế hệ trẻ nước ta vẫn không sợ, mà còn thích thú nữa là khác. Đi đánh giặc như là đi trẩy hội với Đường ra trận mùa bày đẹp lắm (Phạm Tiến Duật- Trường Sơn Đông- Trường Sơn Tây). Đấy chính là khía cạnh lãng mạn của chiến tranh. Nó đã góp phần không nhỏ vào việc giải phóng đất nước khỏi ngoại bang. Điều đó không thể phủ nhận được. Khi một thời kỳ lịch sử được đặc trưng bởi một chế độ thống trị nào đó (như phong kiến, tư bản, nô lệ... ) đã phát triển đến đỉnh điểm, chính là lúc nó bộc lộ một cách đầy đủ nhất tất cả những ưu và nhược điểm vốn có của nó, mà trước đó vẫn còn tiềm ẩn bởi nhiều lý do kinh tế, chính trị, xã hội,... chi phối, nên không thể bộc lộ được, hoặc chỉ bộc lộ một cách phiến diện, cục bộ. Thời kỳ này là mảnh đất màu mỡ làm nảy sinh các dòng tiểu thuyết với cảm hứng chủ đạo là phê phán tính tất yếu không thể tồn tại của chế độ cũ, cần thiết phải ra đời một chế độ mới phù hợp với quyền lợi và nguyện vọng của tuyệt đại đa số quần chúng lao động. Đó chính là thời kỳ bắt đầu tan rã của chế độ phong kiến ở phương Tây vào thể kỷ XIV - XVIII, kết thúc là cuộc cách mạng tư sản Anh và công xã Paris (Pháp) và thời kỳ Cách mạng vô sản đầu thế kỳ XX, mở đầu là sự ra đời của nhà nước Xô Viết kiểu mới ở Liên Xô trước đây và một loạt các nước Đông Âu,...
Sự bức bách của đại bộ phận quần chúng nhân dân không chấp nhận sự tồn tại kéo dài của chế độ cũ, cũng như sự áp đặt một chế độ thống trị mới của ngoại bang, đã tạo nên một tâm thể thời đại mới, là nguyên nhân sâu xa về mặt lịch sử để cho một dòng tiểu thuyết mang cảm hứng ngợi ca hay phê phán, ra đời và phát triển. Tiền đề lịch sử ấy lại không hề có trong thời đại mà chúng ta đang sống. Đây là một nguyên nhân có tính tất yếu khách quan khiến cho trong hàng thập kỷ qua, chúng ta không có một dòng tiểu thuyết đích thực, chưa nói đến tiểu thuyết hay. Mặt khác, tâm thể thời đại còn dội hưởng mạnh mẽ đến đại đa số công chúng của tiểu thuyết. Hoà bình và dựng xây để phát triển (chứ chưa phải là đã phát triển), từ trong bản chất kinh tế và xã hội của nó, đã hoàn toàn đổi khác so với thời kỳ chiến tranh. Xây dựng kinh tế, có nghĩa là chúng ta phải cân, đo, đong, đếm và tính toán đến giá trị, hiệu quả, cái được, cái mất, trước hết là về mặt kinh tế. Lợi ích kinh tế của mỗi cá nhân cung được ưu tiên trong công cuộc dựng xây ngang hàng với lợi ích chung của cả dân tộc, cộng đồng là cái duy nhất được ưu tiên hàng đầu trong chiến tranh. Tính chất cố kết vì sự sống còn của cả cộng đồng, giờ đây được chuyển phần lớn thành những nỗ lực phát triển cá nhân theo những tiềm lực, khát vọng và mục tiêu riêng của mỗi người, cũng là để từ đó tạo nên một cộng đồng, một dân tộc khỏe mạnh một cách thực chất cả về mặt kinh tế thay vì chỉ khỏe mạnh vè ý chí, tinh thần như trong thời kỳ chiến tranh. Một khi nền tảng kinh tế - xã hội, cái có ý nghĩa quyết định đối với sự phát sinh và phát triển của tiểu thuyết, đang diễn ra một sự phân cực gay gắt và quyết liệt, thì làm sao nhà tiểu thuyết có thể tìm ngay được tiếng nói chung cho cả cộng đồng với tư cách là yếu tố chính, tạo nên nội dung tiểu thuyết và đồng thời cũng là người thẩm định cuối cùng của tiểu thuyết. Nền kinh tế thị trường luôn có xu hướng kéo tách con người ra khỏi những liên minh tình cảm truyền thống, cùng với những mục tiêu đạo đức trừu tượng. Mặt khác, nó luôn đặt người ta vào những liên minh kinh tế mới, nhằm mục tiêu có lợi cho mỗi thành viên. Làm sao có được tiếng nói chung giữa những người nông dân còn phải lo để có ăn no, mặc ấm, có công ăn việc làm ổn định thường xuyên với một số người, hôm qua còn là bà con ruột thịt của họ nơi chôn rau cắt rốn, hôm nay đã trở thành kẻ xa lạ trong cuộc sống xa hoa chốn đô thành, trên cương vị của những ông chủ mới.
Làm sao có được tiếng nói chung giữa những số kẻ vốn là cậu học trò nghèo, chăm ngoan ở trường làng, vì một cơ may nào đó phất lên, sẵn sàng bỏ tiền ra mua những căn hộ chung cư cao cấp, những lô đất trong các dự án, mua nhiều cỗ phiếu trên thị trường chứng khoán,...để rồi nhìn mọi người bằng nửa con mắt, luôn giở giọng bề trên, kẻ cả, dạy đời; với một bên chính là những con người hai sương một nắng, lo làm ăn và không ít hơn một lần đã từng nhường cơm sẻ áo và cưu mang những kẻ đó. Thực tế trớ trêu ấy nếu không phải là phổ biến, thì cũng chẳng còn là hiện tượng cá biệt nữa. Nó đã làm lu mờ và xói mòn tinh thần đạo lý bầu ơi thương lấy bí cùng trong những lúc gian khổ hy sinh của những năm tháng đánh giặc của cả dân tộc với nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp. Tâm thể thời đại còn làm thay đổi cả nội dung và tính chất của công chúng tiểu thuyết hôm nay. Lặn lội, bươn chải để tìm kế sinh nhai là hiện tượng phổ biến của đại bộ phận những người lao động ở một đất nước nông nghiệp, chậm phát triển như nước ta. Ngay cả khi trà dư, tửu hậu muốn tìm một ông bạn cố tri để gật gù, dốc bầu tâm sự cũng không phải là dễ. Làm sao người ta có đủ thì giờ để ôm khư khư quyển sách dày vài trăm trang. Nền kinh tế thị trường luôn bắt người ta đứng lên và làm một cái gì đó. Cứ làm ắt sẽ biết, còn hơn ngồi suy tư, ngẫm nghĩ và mộng mơ theo cách của các nhà hiền triết phương Đông. Mộng mơ, cần thiết để làm cho con người ta sống đẹp hơn so với những gì hàng ngày người ta đang sống. Nhưng trớ trêu thay, mộng mơ lại chưa bao giờ đem đến cho người ta cơm ăn áo mặc, tiền của và sự giàu sang. Điều đó chỉ có thể xảy ra trong các câu truyện cổ của Andessen. Thành thử, người ta thích đến với nhau bàn chuyện làm ăn hơn là để thưởng ngoạn văn chương, thích nói với nhau về các mưu chước kiếm tiền hơn là nghe kể về chiến công của người khác trong quá khứ. Người ta thích đua chen cho hợp mốt cạnh tranh của kinh tế thị trường hơn là cùng nhau chia sẻ sự đói nghèo thiếu thốn của thời kỳ chiến tranh, cần phải nương tựa vào nhau mà tồn tại. Bản thân những nhà tiểu thuyết cũng đang trở thành nạn nhân của nền kinh tế thị trường. Anh ta cũng như mọi người phải bươn chải, sinh nhai tối ngày, đầy đêm còn đâu thì giờ để đầu tư cho tiểu thuyết. Đầu óc rối bù, thời gian và sức lực cạn kiệt, nhuận bút lại quá rẻ mạt. Ngợi ca cái gì, phê phán cái gì phải thật sự rõ ràng, tiểu thuyết ở ta lâu nay không cho phép người cầm bút đứng giữa hai cực đó, cũng như không cho phép anh ta thờ ơ với số phận con người. Thời đại mới tuy đã bắt đầu, nhưng vóc dáng của nó hãy còn rất khiêm tốn, chưa thể coi là đã có một dáng đứng Việt Nam trong thời kinh tế thị trường như trong chiến tranh vệ quốc được. Cuộc sống chưa bộc lộ hết những thuộc tính vốn có của nó, cùng với một công chúng đang tranh thủ hướng nội thay vì một thời gian dài đã hướng ngoại đến cùng kiệt, dù nhà tiểu thuyết có muốn đến mấy cũng lực bất tòng tâm, ấy là chưa kể đến bản thân anh ta không phải lúc nào cũng sẵn sàng có một đầu vào - đầu óc và đầu tư - lý tưởng đối với tiểu thuyết. Tuy vậy, trên các sạp sách báo bên vỉa hè hay trong các thư viện, tiểu thuyết vẫn cứ tràn ngập. Nếu một ai đó yếu bóng vía mà nhìn thấy những đống sách ấy có thể bất đắc kỳ tử vì đứt mạch máu não.
Cứ nhìn vào cái rừng tiểu thuyết khá rầm rộ ấy mà bảo rằng thể loại tiểu thuyết trong mấy chục năm qua đang phát triển mạnh và có nhiều thành tựu, thì chẳng qua chỉ nhìn thấy hiện tượng mà không thấy bản chất, thấy số lượng mà không thấy chất lượng. Có thể nói, số lượng tiểu thuyết hôm nay không phải là ít, nếu không muốn nói là quá nhiều, nhưng người đọc sách hôm nay giống như những người đi dự tiệc, ăn không cốt lấy nhiều cho ưỡn bụng khó tiêu, mà cốt là thưởng thức các món cao lương mỹ vị. Từ xưa tới nay, chỉ thấy người ta khen cuốn sách này hay và chê cuốn kia dở, chứ chưa hề thấy ai bảo rằng công chúng dở cả. Hoạ chăng chỉ có một anh chàng nào đó in sách ra mà không bán được cho ai, đành phán bừa như vậy thôi. Mà đã nói bừa, nói liều thì còn chấp làm gì. Quả là không ít người than phiền rằng hôm nay tìm một cuốn tiểu thuyết hay để đọc còn khó hơn tìm một ngôi sao trên bầu trời buổi sáng. Nhưng biết đâu các đại tiểu thuyết gia vẫn đang chuẩn bị cho công chúng một bữa tiệc tiểu thuyết giống như Trạng Quỳnh thết vua món mầm đá trong truyện dân gian. Công chúng, những người vốn rất yêu quý nền văn chương nước nhà hãy cứ đợi đấy (!?)
Đỗ Ngọc Yên ( hoinhanvietnam.vn)
|
NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.
HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.
NGUYỄN VĂN THUẤN (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.
PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.
THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.
HÀ ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.
LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.
BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.
HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.
LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.
NGUYỄN XUÂN HOÀNG (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.
TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.
HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.
NGÔ MINHBữa nay, người làm thơ đông không nhớ hết. Cả nước ta mỗi năm có tới gần ngàn tập thơ được xuất bản. Mỗi ngày trên hàng trăm tờ báo Trung ương, địa phương đều có in thơ. Nhưng, tôi đọc thấy đa phần thơ ta cứ na ná giống nhau, vần vè dễ dãi, rậm lời mà thiếu ý.
NGUYỄN KHẮC PHÊ Ba công trình dày dặn nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh của cùng một tác giả, cùng được xuất bản trong năm 2005 kể cũng đáng gọi là "hiện tượng" trong ngành xuất bản. Ba công trình đó là "Hồ Chí Minh - danh nhân văn hóa" (NXB Văn hóa Thông tin, 315 trang), "Hồ Chí Minh - một nhân cách lớn" (NXB Văn hóa thông tin, 510 trang) và "Đạo Khổng trong văn Bác Hồ" (NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 375 trang).
PHAN CÔNG TUYÊNLTS: Cuộc thi tìm hiểu “60 năm Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do Ban Tư tưởng - Văn hoá trung ương, website Đảng Cộng sản Việt Nam phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia phát động trong cả nước. Tại Thừa Thiên Huế, cuộc thi được phát động từ ngày 7/5/2005 đến ngày 10/7/2005; Ban tổ chức cuộc thi đã nhận được 160.840 bài dự thi của rất nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều thành phần trong xã hội tham gia. Điều này chứng tỏ cuộc thi mang nhiều sức hấp dẫn. Sông Hương xin trích đăng báo cáo tổng kết cuộc thi của đồng chí Phan Công Tuyên, UVTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, Trưởng Ban tổ chức cuộc thi tại Thừa Thiên Huế.
TRẦN THỊ THANHTừ Hán Việt là một lớp từ khá quan trọng trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Việt Nam. Với con số 60% - 70% từ Hán Việt có trong tiếng Việt, nó đã và đang đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết làm thế nào để cho mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên viết và nói đúng tiếng Việt trong đó có từ Hán Việt.
NGUYỄN ĐẮC XUÂN LTS: Bài dưới đây là tham luận của nhà văn Nguyễn Đắc Xuân đọc trong Hội nghị Lý luận phê bình văn học nghệ thuật trung ương, tháng 12-2008. Tác giả có những nhận định khá mới mẻ, những đề xuất khá hợp lý và khá mạnh dạn, tất nhiên bài viết sẽ không tránh phần chủ quan trong góc nhìn và quan điểm riêng của tác giả. Chúng tôi đăng tải gần như nguyên văn và rất mong nhận được những ý kiến phản hồi, trao đổi, thạm chí tranh luận của bạn đọc để rộng đường dư luận.S.H
MAI HOÀNGCẩm cù không nổi tiếng bằng một số truyện ngắn khác của Y Ban như Thư gửi mẹ Âu cơ, I am đàn bà, Đàn bà xấu thì không có quà… Không có những vấn đề hot như sex, nạo phá thai, ngoại tình… tóm lại là những sự vụ liên quan đến “chị em nhà Eva”.