Thử nêu vài nét về hồn vía văn xuôi miền Trung

14:29 05/09/2008
HỒNG NHU            (Tham luận tại Hội nghị Văn học Miền Trung lần thứ II tháng 9-2002) LTS: Hội nghị văn học miền Trung lần thứ hai vừa diễn ra tại thị xã Sầm Sơn, Thanh Hoá trong 2 ngày 19 và 20 tháng 9 năm 2002. Gần 80 nhà văn của 18 tỉnh thành từ Bình Thuận đến Thanh Hoá đã về dự. Ngoài ra còn có đại diện các hội đồng chuyên môn, các ban công tác, các cơ quan báo chí xuất bản của Hội Nhà văn Việt cũng có mặt trong cuộc hội ngộ này.

24 bản tham luận trình bày trước hội nghị đã thể hiện được ý chí, tâm huyết và trách nhiệm của đội ngũ nhà văn miền Trung đối với đất nước và nhân dân.
Nhạc sĩ Trần Hoàn, Phó Trưởng ban Tư tưởng Văn hoá T.Ư, nhà thơ Hữu Thỉnh, Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam cũng đã tham dự chỉ đạo và phát biểu với hội nghị.
Sông Hương xin trân trọng giới thiệu một số tham luận sau đây.


Giờ đây có lẽ không còn ai nghĩ như một cách khái quát lâu nay rằng miền Bắc là đất của tiểu thuyết, miền là đất của sân khấu ca kịch, và thơ ca luôn ngự trị ở miền Trung nữa!
Nền văn học Việt Nam ta từ sau Cách mạng Tháng 8 đến nay, qua các giai đoạn các thời kỳ - bằng những thành tựu của nó - đã san lấp, bù trừ và nhào nặn nên một nhận thức thống nhất, công bằng và khoa học hơn, không còn sự phân biệt theo cảm tính, mang màu sắc "trấn thủ địa phương" như trên. Có được như vậy là nhờ đường lối văn học đúng đắn, kéo theo sự phát triển đồng đều, sự thúc đẩy của tình hình khách quan, và hơn hết là nội tâm nội lực của các chủ thể sáng tạo. Không có nhà văn miền Trung nào lại nghĩ rằng mình không thể thành công trong lĩnh vực văn xuôi. Và cũng như vậy, thật hoang đường nếu có ai đó cho rằng các nhà văn Nam Bộ thì chẳng thể làm thơ hay, chẳng thể có truyện ngắn truyện dài nổi tiếng!
Công cuộc đổi mới của đất nước đã làm biến đổi tư duy sáng tạo - nói chính xác hơn, tôi nghĩ - là trở lại cốt lõi của những gì trong cuộc sống con người với những cung bậc và sắc màu khác nhau mà thiên chức nhà văn luôn hướng tới với tất cả tâm hồn và lao động đặc thù của mình để thể hiện. Chỉ kể trong vòng vài bốn năm gần đây thôi, nghĩa là trong nhiệm kỳ này của Đại hội VI Hội ta, các nhà văn xuôi miền Trung đã không hổ thẹn với điều vừa là trách nhiệm vừa là "luật chơi" nói trên.
Miền Trung nghèo và khó, ai cũng biết rồi, khỏi phải nói nhiều. Song ở đây có một vấn đề: các nhà văn chúng ta trong môi trường đó, đời sống và điều kiện làm việc có thể tóm gọn trong mấy chữ: nghèo và nghèo nhất, khó và khó nhất! Không mấy người có thuận lợi về đời sống vật chất. Thật chẳng hay ho gì khi phải kể điều này ra, nhưng đó là tình hình có thật. Và đây là tình hình có thật nữa: không có khó khăn nào có thể dừng được ngòi bút sáng tạo của các nhà văn. Chúng ta đã thường trực và không ngừng quẫy cựa - mỗi người mỗi cách, có cách nghe như tiểu thuyết vậy! - để làm sao luôn hiện diện với cuộc đời với người đọc bằng tác phẩm chứ không phải bằng cái "chức danh nhà văn"; mà trong những tác phẩm đó, người đọc không hề thấy bóng dáng của sự khó khăn, chật vật trong cuộc sống thường ngày tác giả của chúng đang phải đối mặt và còn phải đối mặt không phải trong tương lai gần một vài mùa sáng tác đâu! Xin nêu một thống kê không được đầy đủ và chính xác lắm: từ 2000 - 2002 số lượng tác phẩm của hơn ba mươi nhà văn viết văn xuôi ở miền Trung là ngót sáu mươi cuốn, mỗi cuốn từ 150 trang đến 500 trang gồm tiểu thuyết, truyện ngắn, bút ký, tạp văn v.v... Chúng ta đều biết rằng đối với văn chương, số lượng chẳng là cái gì, song số lượng cũng không phải chẳng là cái gì... Một số tác phẩm trong số trên đã được giải hàng năm, hàng kỳ ở các Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật, Hội Nhà văn ở Trung ương. Về các giải văn chương, tôi vẫn suy nghĩ rằng: tác phẩm được giải chưa chắc đã xuất sắc và tác phẩm không được giải chưa chắc đã không xuất sắc. Theo chỗ tôi được đọc, có đến một phần ba các tác phẩm trong mấy năm nay của các nhà văn miền Trung đều có chất lượng khá, đều không thua kém gì với các tác phẩm mà các Hội Trung ương đã trao giải.
Nhân nói đến chuyện này, năm ngoái tôi có khùng khùng làm một động tác thử nghiệm, có thể gọi là một cú "điều tra xã hội" nho nhỏ: tôi đem ra 5 cuốn sách mà với tư cách một thành viên của Hội đồng Văn xuôi tôi đã bỏ phiếu đoạt giải thưởng của Hội Nhà văn, và 4 cuốn của các bạn miền Trung ta đang có mặt ở đây - dĩ nhiên là những cuốn các bạn hoặc không gửi dự giải hoặc không được chọn qua ban sơ khảo. Đối tượng đọc là 3 giáo viên đại học, 3 cán bộ về hưu và 3 sinh viên năm cuối. Đây toàn là bạn bè quen biết của tôi, họ đều là những người ham mê đọc văn chương, tôi cố ý chọn như thế để họ đọc xong có thể nói thật lòng với tôi. Kết quả thật bất ngờ: 5 cuốn tôi bỏ phiếu không ai khen hay cả, còn 4 cuốn của các bạn thì 3 được thích, được khen hay!
Chẳng có gì là lạ trong chuyện khen chê, nhưng qua chuyện này tôi giật mình, tự nghi ngờ sự thẩm định của bản thân. Vẫn biết rằng cái kết quả nọ chắc gì đã đúng đã chính xác; chuyện văn chương mà, chín người mười ý, biết đâu mà lần, nhưng nó vẫn làm cho chúng ta cần và nên suy nghĩ nghiêm cẩn nhiều điều, tỉ như: làm sao để xã hội hoá các sản phẩm sáng tạo của nhà văn; làm sao nâng cao thị hiếu thẩm thấu văn chương của người đọc; làm sao để công bằng, dân chủ và chuẩn xác hơn trong thẩm định văn chương v.v...
Ở miền Trung ta, có nhiều nhà thơ viết văn xuôi và ngược lại. Viết ra viết, viết cho sự nghiệp, tức là cả hai lĩnh vực các anh chị ấy đều có những thành tựu đáng chú ý. Xin thổ lộ một điều riêng: tôi không sợ lắm những nhà văn xuôi làm thơ, nhưng rất sợ, rất phục những nhà thơ viết văn xuôi. Đọc họ, tôi thấy họ uyên áo nhiều, thâm hậu lắm; đặc biệt là trong các loại văn bút ký, phê bình cảm nhận, nhàn đàm, tản văn... Ở phía chủ thể, chừng nào mà thể loại tự tìm đến mình chứ không phải do mình lăm le rồi ấn định trước, là thường thu được những thành công đáng giá. Thể loại chọn lựa tác giả chứ không phải tác giả chọn lựa thể loại, đúng vậy chăng?
Hồn vía núi sông, thế đất màu trời cùng với lịch sử, điều kiện sống của một vùng đất tạo nên khí chất con người ở đó, điều này không còn nghi ngờ gì; cố nhiên là có cả mặt hạn chế của nó. Miền Trung là phần giữa của đất nước mình, đi dọc bằng đường bộ từ xứ Thanh vào Phan Thiết, dằng dặc đến muốn tắc thở vì nóng cả ruột. Ấy vậy mà khi ngồi trước trang giấy trắng, tôi nghĩ chắc rằng các bạn đồng nghiệp cũng như tôi, cái sự nóng ruột đó đã biến thành niềm rạo rực, giục giã, bởi vì trên chặng đường dài đó chúng ta đã gom nhặt được biết bao là tình tiết sự việc, biết bao là hình ảnh con người, dịu dàng thuần phác có, đốp chát kiêu sa có, thanh thoát an nhiên có, bi hùng máu lệ có...
Vùng đất dài và hẹp như chiếc đòn gánh, mà đã là đòn gánh tất nhiên để quảy hai bầu; như cái lưng ong, mà đã thắt đáy lưng ong ắt phải gồng mình để đỡ ngực và bụng. Sự giao lưu và tiếp thụ văn hoá của hai đầu đất nước đã tạo cho văn chương miền Trung một bản sắc mở; riêng gương mặt văn xuôi của miền cũng vì thế mà hoàn toàn trái ngược với chiều ngang của nó chẳng mấy nả trên bản đồ và trên thực địa.
Văn xuôi miền Trung nằm trong nền văn xuôi Việt - cố nhiên rồi. Nhưng nó có những nét riêng. Theo tôi - nhất là trong truyện ngắn truyện vừa, nó hàm chứa cái chất miệt mài đắm đuối. Miệt mài vì phải lao động cần cù, cực nhọc mới sống được. Đắm đuối vì phải chịu đựng, chịu đựng trong hoạn nạn đã đành, chịu đựng trong cả hạnh phúc. Nói tóm lại nó giông giống như một thứ tình yêu kỳ ảo. Các nhà văn miền Trung yêu một người đàn bà hay đàn ông nào đó không nổi thì chi bằng yêu hết mọi người đàn bà đàn ông cho xong! "Cá chuối đắm đuối vì con", cái câu này rất hợp, vẽ rất đúng hồn vía văn xuôi miền Trung.
Bên cạnh những Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trần Thuỳ Mai phiêu bồng và khói sương ẩn hiện; là những Từ Nguyên Tĩnh, Kiều Vượng, đặc chất trực diện, vỗ mặt, viết như đẽo gỗ chặt đinh... Bên cạnh những Nguyễn Quang Hà, Phan Cao Toại, Hà Khánh Linh năng nổ, tung ra như gió cuốn mây bay; là những Hữu Phương, Nguyễn Khắc Phê, Hoàng Bình Trọng dùi mài, khẩn thiết với những ngõ ngách cuộc sống chẳng dễ dàng gì hôm nay... Bên cạnh những Đức Ban, Huỳnh Thạch Thảo mặn mà phì nhiêu như trong lòng sông biển, dưới lớp phù sa; là những Trần Thị Huyền Trang, Quý Thể vừa huyền ảo, diệu vi vừa dữ dội, ôm trùm... Bên cạnh những Thu Loan, Bá Dũng, Nguyễn Gia Nùng chỉn chu, cần mẫn với những trang viết đầy khát vọng vươn tới cái hoàn thiện; là những Như Bình, Nguyễn Thị Phước, Đàm Quỳnh Ngọc thuần hậu, đắm say, hồn có vẻ lãng đãng trên cao nhưng thật ra thân bám trụ rất chắc dưới đất...
Tôi xin lỗi vì không thể kể hết các anh chị khác ra đây. Nhân buổi gặp mặt, bàn thảo công việc hôm nay, chúng ta nhớ biết bao đến các nhà văn miền Trung bám sát cơ sở địa phương một đời vì sự nghiệp đã từ giã chúng ta, về cõi đã lâu hoặc mới gần đây. Tôi tin rằng ở thế giới bên kia, hẳn các anh cũng đang theo dõi những người đồng nghiệp là chúng ta đang sống và lao động văn học trên mảnh đất quê hương anh hùng dầu dãi; trong cái hồn thâm trầm, đau đáu của khúc ruột miền Trung cộng với cái sắc sảo hào hoa của xứ Bắc và cả cái khoáng đạt hào sảng của miền Nam, mà các nhà văn chúng ta đang hoà trộn giờ đây đã trở thành máu thịt.
Có một điều có thể gọi là khác lạ ở miền Trung: các lớp nhà văn trẻ dường như có một lực lượng phi vật thể linh nghiệm nào đó hướng dẫn mà ngòi bút của họ bám chắc vào truyền thống, vào văn hoá dân tộc, một cách như là thuộc tính. Không thấy có sự "nổi loạn", "bứt phá", "xé rào"; không thấy có sự cách tân nhay nháy hoặc làm ra vẻ ta đây "hoà nhập" với thế giới, "toàn cầu hoá" văn chương - điều mà vừa qua và cả giờ đây, trên mặt bằng văn học nước ta không khó lắm để nhận ra trong một số tác phẩm tác giả nào đó.
Nhận thức rằng ngày nay dân trí ta đã phát triển khá cao, quần chúng độc giả đòi hỏi nhà văn càng cao. Những gì còn yếu, còn thiếu, bản thân nhà văn tự biết hơn ai hết. Nhà văn miền Trung cũng vậy thôi. Quyền được hi vọng là quyền không bao giờ chấm dứt.
Xã hội đã thành thói quen từ công cuộc đổi mới, chấp nhận tất cả những gì cần chấp nhận của các nhà văn thể hiện ra trên tác phẩm, miễn là trung thực và xây dựng. Và cái chính là phải hay. Hay cũng ba bảy đường, nhân dân quần chúng họ biết điều này lắm; và ở một góc độ nào đó, họ còn biết hơn nhà văn chúng ta. Ở chỗ họ là người thưởng thức, người được phục vụ, họ không bị những gì ngoài văn chương chi phối sự đánh giá của họ.
Như vậy, tôi nghĩ rằng chúng ta hãy viết vì quần chúng độc giả đó. Điều này không hề mâu thuẫn, trái lại đồng nghĩa với mệnh đề nằm lòng của chúng ta: nhà văn viết vì sự mách bảo của con tim, con tim thuộc về nhân dân, đất nước mình...
9-2002
H.N

(nguồn: TCSH số 164 - 10 - 2002)

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.

  • NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.

  • HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.

  • NGUYỄN VĂN THUẤN          (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.

  • PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.

  • THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.

  • HÀ  ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.

  • LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.  

  • BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.

  • LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG   (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.

  • TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.

  • HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.

  • NGÔ MINHBữa nay, người làm thơ đông không nhớ hết. Cả nước ta mỗi năm có tới gần ngàn tập thơ được xuất bản. Mỗi ngày trên hàng trăm tờ báo Trung ương, địa phương đều có in thơ. Nhưng, tôi đọc thấy đa phần thơ ta cứ na ná giống nhau, vần vè dễ dãi, rậm lời mà thiếu ý.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     Ba công trình dày dặn nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh của cùng một tác giả, cùng được xuất bản trong năm 2005 kể cũng đáng gọi là "hiện tượng" trong ngành xuất bản. Ba công trình đó là "Hồ Chí Minh - danh nhân văn hóa" (NXB Văn hóa Thông tin, 315 trang), "Hồ Chí Minh - một nhân cách lớn" (NXB Văn hóa thông tin, 510 trang) và "Đạo Khổng trong văn Bác Hồ" (NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 375 trang).

  • PHAN CÔNG TUYÊNLTS: Cuộc thi tìm hiểu “60 năm Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do Ban Tư tưởng - Văn hoá trung ương, website Đảng Cộng sản Việt Nam phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia phát động trong cả nước. Tại Thừa Thiên Huế, cuộc thi được phát động từ ngày 7/5/2005 đến ngày 10/7/2005; Ban tổ chức cuộc thi đã nhận được 160.840 bài dự thi của rất nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều thành phần trong xã hội tham gia. Điều này chứng tỏ cuộc thi mang nhiều sức hấp dẫn. Sông Hương xin trích đăng báo cáo tổng kết cuộc thi của đồng chí Phan Công Tuyên, UVTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, Trưởng Ban tổ chức cuộc thi tại Thừa Thiên Huế.

  • TRẦN THỊ THANHTừ Hán Việt là một lớp từ khá quan trọng trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Việt Nam. Với con số 60% - 70% từ Hán Việt có trong tiếng Việt, nó đã và đang đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết làm thế nào để cho mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên viết và nói đúng tiếng Việt trong đó có từ Hán Việt.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN LTS: Bài dưới đây là tham luận của nhà văn Nguyễn Đắc Xuân đọc trong Hội nghị Lý luận phê bình văn học nghệ thuật trung ương, tháng 12-2008. Tác giả có những nhận định khá mới mẻ, những đề xuất khá hợp lý và khá mạnh dạn, tất nhiên bài viết sẽ không tránh phần chủ quan trong góc nhìn và quan điểm riêng của tác giả. Chúng tôi đăng tải gần như nguyên văn và rất mong nhận được những ý kiến phản hồi, trao đổi, thạm chí tranh luận của bạn đọc để rộng đường dư luận.S.H