Thử nêu vài nét về hồn vía văn xuôi miền Trung

14:29 05/09/2008
HỒNG NHU            (Tham luận tại Hội nghị Văn học Miền Trung lần thứ II tháng 9-2002) LTS: Hội nghị văn học miền Trung lần thứ hai vừa diễn ra tại thị xã Sầm Sơn, Thanh Hoá trong 2 ngày 19 và 20 tháng 9 năm 2002. Gần 80 nhà văn của 18 tỉnh thành từ Bình Thuận đến Thanh Hoá đã về dự. Ngoài ra còn có đại diện các hội đồng chuyên môn, các ban công tác, các cơ quan báo chí xuất bản của Hội Nhà văn Việt cũng có mặt trong cuộc hội ngộ này.

24 bản tham luận trình bày trước hội nghị đã thể hiện được ý chí, tâm huyết và trách nhiệm của đội ngũ nhà văn miền Trung đối với đất nước và nhân dân.
Nhạc sĩ Trần Hoàn, Phó Trưởng ban Tư tưởng Văn hoá T.Ư, nhà thơ Hữu Thỉnh, Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam cũng đã tham dự chỉ đạo và phát biểu với hội nghị.
Sông Hương xin trân trọng giới thiệu một số tham luận sau đây.


Giờ đây có lẽ không còn ai nghĩ như một cách khái quát lâu nay rằng miền Bắc là đất của tiểu thuyết, miền là đất của sân khấu ca kịch, và thơ ca luôn ngự trị ở miền Trung nữa!
Nền văn học Việt Nam ta từ sau Cách mạng Tháng 8 đến nay, qua các giai đoạn các thời kỳ - bằng những thành tựu của nó - đã san lấp, bù trừ và nhào nặn nên một nhận thức thống nhất, công bằng và khoa học hơn, không còn sự phân biệt theo cảm tính, mang màu sắc "trấn thủ địa phương" như trên. Có được như vậy là nhờ đường lối văn học đúng đắn, kéo theo sự phát triển đồng đều, sự thúc đẩy của tình hình khách quan, và hơn hết là nội tâm nội lực của các chủ thể sáng tạo. Không có nhà văn miền Trung nào lại nghĩ rằng mình không thể thành công trong lĩnh vực văn xuôi. Và cũng như vậy, thật hoang đường nếu có ai đó cho rằng các nhà văn Nam Bộ thì chẳng thể làm thơ hay, chẳng thể có truyện ngắn truyện dài nổi tiếng!
Công cuộc đổi mới của đất nước đã làm biến đổi tư duy sáng tạo - nói chính xác hơn, tôi nghĩ - là trở lại cốt lõi của những gì trong cuộc sống con người với những cung bậc và sắc màu khác nhau mà thiên chức nhà văn luôn hướng tới với tất cả tâm hồn và lao động đặc thù của mình để thể hiện. Chỉ kể trong vòng vài bốn năm gần đây thôi, nghĩa là trong nhiệm kỳ này của Đại hội VI Hội ta, các nhà văn xuôi miền Trung đã không hổ thẹn với điều vừa là trách nhiệm vừa là "luật chơi" nói trên.
Miền Trung nghèo và khó, ai cũng biết rồi, khỏi phải nói nhiều. Song ở đây có một vấn đề: các nhà văn chúng ta trong môi trường đó, đời sống và điều kiện làm việc có thể tóm gọn trong mấy chữ: nghèo và nghèo nhất, khó và khó nhất! Không mấy người có thuận lợi về đời sống vật chất. Thật chẳng hay ho gì khi phải kể điều này ra, nhưng đó là tình hình có thật. Và đây là tình hình có thật nữa: không có khó khăn nào có thể dừng được ngòi bút sáng tạo của các nhà văn. Chúng ta đã thường trực và không ngừng quẫy cựa - mỗi người mỗi cách, có cách nghe như tiểu thuyết vậy! - để làm sao luôn hiện diện với cuộc đời với người đọc bằng tác phẩm chứ không phải bằng cái "chức danh nhà văn"; mà trong những tác phẩm đó, người đọc không hề thấy bóng dáng của sự khó khăn, chật vật trong cuộc sống thường ngày tác giả của chúng đang phải đối mặt và còn phải đối mặt không phải trong tương lai gần một vài mùa sáng tác đâu! Xin nêu một thống kê không được đầy đủ và chính xác lắm: từ 2000 - 2002 số lượng tác phẩm của hơn ba mươi nhà văn viết văn xuôi ở miền Trung là ngót sáu mươi cuốn, mỗi cuốn từ 150 trang đến 500 trang gồm tiểu thuyết, truyện ngắn, bút ký, tạp văn v.v... Chúng ta đều biết rằng đối với văn chương, số lượng chẳng là cái gì, song số lượng cũng không phải chẳng là cái gì... Một số tác phẩm trong số trên đã được giải hàng năm, hàng kỳ ở các Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật, Hội Nhà văn ở Trung ương. Về các giải văn chương, tôi vẫn suy nghĩ rằng: tác phẩm được giải chưa chắc đã xuất sắc và tác phẩm không được giải chưa chắc đã không xuất sắc. Theo chỗ tôi được đọc, có đến một phần ba các tác phẩm trong mấy năm nay của các nhà văn miền Trung đều có chất lượng khá, đều không thua kém gì với các tác phẩm mà các Hội Trung ương đã trao giải.
Nhân nói đến chuyện này, năm ngoái tôi có khùng khùng làm một động tác thử nghiệm, có thể gọi là một cú "điều tra xã hội" nho nhỏ: tôi đem ra 5 cuốn sách mà với tư cách một thành viên của Hội đồng Văn xuôi tôi đã bỏ phiếu đoạt giải thưởng của Hội Nhà văn, và 4 cuốn của các bạn miền Trung ta đang có mặt ở đây - dĩ nhiên là những cuốn các bạn hoặc không gửi dự giải hoặc không được chọn qua ban sơ khảo. Đối tượng đọc là 3 giáo viên đại học, 3 cán bộ về hưu và 3 sinh viên năm cuối. Đây toàn là bạn bè quen biết của tôi, họ đều là những người ham mê đọc văn chương, tôi cố ý chọn như thế để họ đọc xong có thể nói thật lòng với tôi. Kết quả thật bất ngờ: 5 cuốn tôi bỏ phiếu không ai khen hay cả, còn 4 cuốn của các bạn thì 3 được thích, được khen hay!
Chẳng có gì là lạ trong chuyện khen chê, nhưng qua chuyện này tôi giật mình, tự nghi ngờ sự thẩm định của bản thân. Vẫn biết rằng cái kết quả nọ chắc gì đã đúng đã chính xác; chuyện văn chương mà, chín người mười ý, biết đâu mà lần, nhưng nó vẫn làm cho chúng ta cần và nên suy nghĩ nghiêm cẩn nhiều điều, tỉ như: làm sao để xã hội hoá các sản phẩm sáng tạo của nhà văn; làm sao nâng cao thị hiếu thẩm thấu văn chương của người đọc; làm sao để công bằng, dân chủ và chuẩn xác hơn trong thẩm định văn chương v.v...
Ở miền Trung ta, có nhiều nhà thơ viết văn xuôi và ngược lại. Viết ra viết, viết cho sự nghiệp, tức là cả hai lĩnh vực các anh chị ấy đều có những thành tựu đáng chú ý. Xin thổ lộ một điều riêng: tôi không sợ lắm những nhà văn xuôi làm thơ, nhưng rất sợ, rất phục những nhà thơ viết văn xuôi. Đọc họ, tôi thấy họ uyên áo nhiều, thâm hậu lắm; đặc biệt là trong các loại văn bút ký, phê bình cảm nhận, nhàn đàm, tản văn... Ở phía chủ thể, chừng nào mà thể loại tự tìm đến mình chứ không phải do mình lăm le rồi ấn định trước, là thường thu được những thành công đáng giá. Thể loại chọn lựa tác giả chứ không phải tác giả chọn lựa thể loại, đúng vậy chăng?
Hồn vía núi sông, thế đất màu trời cùng với lịch sử, điều kiện sống của một vùng đất tạo nên khí chất con người ở đó, điều này không còn nghi ngờ gì; cố nhiên là có cả mặt hạn chế của nó. Miền Trung là phần giữa của đất nước mình, đi dọc bằng đường bộ từ xứ Thanh vào Phan Thiết, dằng dặc đến muốn tắc thở vì nóng cả ruột. Ấy vậy mà khi ngồi trước trang giấy trắng, tôi nghĩ chắc rằng các bạn đồng nghiệp cũng như tôi, cái sự nóng ruột đó đã biến thành niềm rạo rực, giục giã, bởi vì trên chặng đường dài đó chúng ta đã gom nhặt được biết bao là tình tiết sự việc, biết bao là hình ảnh con người, dịu dàng thuần phác có, đốp chát kiêu sa có, thanh thoát an nhiên có, bi hùng máu lệ có...
Vùng đất dài và hẹp như chiếc đòn gánh, mà đã là đòn gánh tất nhiên để quảy hai bầu; như cái lưng ong, mà đã thắt đáy lưng ong ắt phải gồng mình để đỡ ngực và bụng. Sự giao lưu và tiếp thụ văn hoá của hai đầu đất nước đã tạo cho văn chương miền Trung một bản sắc mở; riêng gương mặt văn xuôi của miền cũng vì thế mà hoàn toàn trái ngược với chiều ngang của nó chẳng mấy nả trên bản đồ và trên thực địa.
Văn xuôi miền Trung nằm trong nền văn xuôi Việt - cố nhiên rồi. Nhưng nó có những nét riêng. Theo tôi - nhất là trong truyện ngắn truyện vừa, nó hàm chứa cái chất miệt mài đắm đuối. Miệt mài vì phải lao động cần cù, cực nhọc mới sống được. Đắm đuối vì phải chịu đựng, chịu đựng trong hoạn nạn đã đành, chịu đựng trong cả hạnh phúc. Nói tóm lại nó giông giống như một thứ tình yêu kỳ ảo. Các nhà văn miền Trung yêu một người đàn bà hay đàn ông nào đó không nổi thì chi bằng yêu hết mọi người đàn bà đàn ông cho xong! "Cá chuối đắm đuối vì con", cái câu này rất hợp, vẽ rất đúng hồn vía văn xuôi miền Trung.
Bên cạnh những Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trần Thuỳ Mai phiêu bồng và khói sương ẩn hiện; là những Từ Nguyên Tĩnh, Kiều Vượng, đặc chất trực diện, vỗ mặt, viết như đẽo gỗ chặt đinh... Bên cạnh những Nguyễn Quang Hà, Phan Cao Toại, Hà Khánh Linh năng nổ, tung ra như gió cuốn mây bay; là những Hữu Phương, Nguyễn Khắc Phê, Hoàng Bình Trọng dùi mài, khẩn thiết với những ngõ ngách cuộc sống chẳng dễ dàng gì hôm nay... Bên cạnh những Đức Ban, Huỳnh Thạch Thảo mặn mà phì nhiêu như trong lòng sông biển, dưới lớp phù sa; là những Trần Thị Huyền Trang, Quý Thể vừa huyền ảo, diệu vi vừa dữ dội, ôm trùm... Bên cạnh những Thu Loan, Bá Dũng, Nguyễn Gia Nùng chỉn chu, cần mẫn với những trang viết đầy khát vọng vươn tới cái hoàn thiện; là những Như Bình, Nguyễn Thị Phước, Đàm Quỳnh Ngọc thuần hậu, đắm say, hồn có vẻ lãng đãng trên cao nhưng thật ra thân bám trụ rất chắc dưới đất...
Tôi xin lỗi vì không thể kể hết các anh chị khác ra đây. Nhân buổi gặp mặt, bàn thảo công việc hôm nay, chúng ta nhớ biết bao đến các nhà văn miền Trung bám sát cơ sở địa phương một đời vì sự nghiệp đã từ giã chúng ta, về cõi đã lâu hoặc mới gần đây. Tôi tin rằng ở thế giới bên kia, hẳn các anh cũng đang theo dõi những người đồng nghiệp là chúng ta đang sống và lao động văn học trên mảnh đất quê hương anh hùng dầu dãi; trong cái hồn thâm trầm, đau đáu của khúc ruột miền Trung cộng với cái sắc sảo hào hoa của xứ Bắc và cả cái khoáng đạt hào sảng của miền Nam, mà các nhà văn chúng ta đang hoà trộn giờ đây đã trở thành máu thịt.
Có một điều có thể gọi là khác lạ ở miền Trung: các lớp nhà văn trẻ dường như có một lực lượng phi vật thể linh nghiệm nào đó hướng dẫn mà ngòi bút của họ bám chắc vào truyền thống, vào văn hoá dân tộc, một cách như là thuộc tính. Không thấy có sự "nổi loạn", "bứt phá", "xé rào"; không thấy có sự cách tân nhay nháy hoặc làm ra vẻ ta đây "hoà nhập" với thế giới, "toàn cầu hoá" văn chương - điều mà vừa qua và cả giờ đây, trên mặt bằng văn học nước ta không khó lắm để nhận ra trong một số tác phẩm tác giả nào đó.
Nhận thức rằng ngày nay dân trí ta đã phát triển khá cao, quần chúng độc giả đòi hỏi nhà văn càng cao. Những gì còn yếu, còn thiếu, bản thân nhà văn tự biết hơn ai hết. Nhà văn miền Trung cũng vậy thôi. Quyền được hi vọng là quyền không bao giờ chấm dứt.
Xã hội đã thành thói quen từ công cuộc đổi mới, chấp nhận tất cả những gì cần chấp nhận của các nhà văn thể hiện ra trên tác phẩm, miễn là trung thực và xây dựng. Và cái chính là phải hay. Hay cũng ba bảy đường, nhân dân quần chúng họ biết điều này lắm; và ở một góc độ nào đó, họ còn biết hơn nhà văn chúng ta. Ở chỗ họ là người thưởng thức, người được phục vụ, họ không bị những gì ngoài văn chương chi phối sự đánh giá của họ.
Như vậy, tôi nghĩ rằng chúng ta hãy viết vì quần chúng độc giả đó. Điều này không hề mâu thuẫn, trái lại đồng nghĩa với mệnh đề nằm lòng của chúng ta: nhà văn viết vì sự mách bảo của con tim, con tim thuộc về nhân dân, đất nước mình...
9-2002
H.N

(nguồn: TCSH số 164 - 10 - 2002)

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN ĐÌNH SỬVăn học Trung Quốc trong cơ chế thị trường đã có những biến đổi khá lớn. Theo các tác giả của sách Văn học Trung Quốc thế kỷ XX xuất bản tại Quảng Châu năm 1988 có thể nắm được một đôi nét diện mạo, chứng tỏ văn học Trung Quốc không còn có thể tồn tại theo phương thức cũ. Cơ chế thị trường đã làm cho nhà văn và nhà phê bình phải suy tính lại về sách lược sinh tồn và phương hướng phát triển nghề nghiệp.

  • ĐOÀN TUẤNThạch Lam qua đời cách đây đã hơn nửa thế kỉ. Ông để lại cho chúng ta một khối lượng tác phẩm không lớn nhưng chúng đã trở thành một mẫu số vĩnh hằng trong văn học Việt Nam. Tiếc rằng chúng ta đã không thể lưu giữ một bức chân dung nào của Thạch Lam. Thậm chí mộ ông được chôn cất nơi nào, cũng không ai biết.

  • NHẬT CHUNG       (Đọc bài thơ XÓM LỤT của anh Phạm Xuân Phụng)Anh Phụng là bác sĩ ở Bệnh viện Trung ương Huế. Tôi tìm hết trong tuyển tập HAI THẬP KỶ THƠ HUẾ, chỉ duy nhất bài thơ này viết về cảnh lụt lội hàng năm vẫn xảy ra ở mảnh đất nghèo khó. Trong những ngày đau buồn, khi nước vừa rút, trắng bợt trước mắt tôi những bài thơ tình èo uột nỉ non ẻo lả, và đứng dậy trước mắt tôi một bài thơ XÓM LỤT.

  • PHONG  LÊBến không chồng - Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1991 đưa nhanh Dương Hướng lên một vị trí cao trong thành tựu văn học Đổi mới. Không thuộc đội ngũ “tiền trạm” xuất hiện từ đầu những năm 80 như Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Mạnh Tuấn (sinh năm 1948) - người cùng thế hệ với anh (sinh 1949), đến tuổi 40 mới bắt đầu trình làng với tập truyện ngắn Gót son (1989), thế mà chỉ 2 năm sau, Dương Hướng bỗng trở thành một “tên tuổi” với Bến không chồng, góp mặt cùng Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh làm nên một bộ ba sáng giá trong văn học mở đầu thập niên 90, năm năm sau khởi động của công cuộc Đổi mới.

  • HÀ QUANG MINHLTS: Liệu có phải văn hóa chỉ đơn thuần là văn hóa hay nói cách khác là chỉ chứa đựng các yếu tố văn hóa không? Câu trả lời chắc chắn là không. Văn hóa mang cả trong nó tính chính trị và kinh tế. Trong khuôn khổ bài viết này, chỉ nhắc tới tính kinh tế trong văn hóa mà thôi nhưng hy vọng nó sẽ đóng góp nhiều cho công cuộc xây dựng một xã hội văn minh hơn, công bằng hơn.

  • ĐỖ LAI THÚYVề Kinh Bắc với những hội hè, chùa chiền, với đồng chiều cuống rạ, dây bìm bìm, bí lông tơ, giun đất, con gà trụi, châu chấu.. làm người đọc nhớ đến dòng thơ viết về nông thôn, nhất là thơ Nguyễn Bính. “ Trong các nhà thơ cùng thời viết về nông thôn như Bàng Bá Lân, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ... có lẽ chỉ có Nguyễn Bính là nhận thức sâu sắc được sự thay đổi của thôn quê trước “ cuộc xâm lăng” của đô thị.

  • TRẦN VĂN TOÀN - NGUYỄN XUÂN DIÊN1. Ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới là một vấn đề từ lâu đã được đề cập tới. Ngay từ năm 1942, Hoài Thanh- Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam mặc dù giành nhiều trang để miêu tả ảnh hưởng của thơ Pháp (đặc biệt là trường phái Tượng trưng) nhưng các ông đã trân trọng và có một chút hứng thú đặc biệt về ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới (điều này được bộc lộ qua công phu miêu tả, khảo cứu và cụ thể hơn từ chính số lượng trang viết). Khi phân chia các dòng mạch Thơ Mới, Hoài Thanh- Hoài Chân nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng của thơ Pháp, dòng mạch mang tính cách Việt, đồng thời cũng nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng từ Đường thi.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN…Trong thời kỳ đổi mới xuất hiện nhiều tác phẩm cảm hứng phê phán rất mạnh. Có những quan điểm và giọng điệu phê phán rất khác nhau: xót xa và lo thương, căm uất và hằn học, tỉnh táo và điềm đạm... Cảm hứng phê phán mang tinh thần hài hước khoan hòa sẽ tạo một vị trí đặc biệt cho Nguyễn Việt Hà trong văn xuôi Việt Nam đương đại…

  • ALEXANDER GENISTrên thị trường Mỹ đã xuất hiện những cuốn sách điện tử đầu tiên. “Softbook” - một đĩa điện tử có màn hình bọc da. Sức chứa - 100 000 trang, trọng lượng - 15 kg, giá cả - 300 đôla cộng 10 đôla kết nối mỗi tháng. “Paketbook” giá 500 đôla, nhưng đi kèm với nó phải có máy tính cá nhân. “Dedicate Reader” - một sổ tay điện tử. Nó giống như một cuốn sách thực sự, có một màn hình kép chứa các bản vẽ, bản đồ, sơ đồ, bảng biểu. Giá là 1500 đôla. Như kinh nghiệm cho thấy, không ai thích đọc văn bản theo màn hình, vì thế tại viện nghiên cứu “Media-lab” người ta đang tìm cách chế tạo thứ “mực điện tử” - những cái bao hết sức nhỏ có thể tùy theo cường độ và hướng của dòng điện sắp xếp lại với nhau để tạo thành văn bản. Theo cách đó, gần như loại sách bằng giấy thông thường có thể được in lại - thay một nội dung này bằng một nội dung khác. Tờ “New York Times” viết: “Ngay giờ đây đã thấy rõ sách điện tử là điều tất yếu. Nếu như không phải là sự thay thế sách in, thì cũng là sự luân phiên nó”. (Theo báo chí)

  • TRẦN ANH PHƯƠNGCầm trên tay tập thơ "Người hái phù dung" của Hoàng Phủ Ngọc Tường tôi như đọc với chính mình giữa đêm khuya lặng lẽ bên ngọn đèn. Cảm nhận đầu tiên về thơ anh không phải thơ để đọc giữa chốn đông người hay ở trong hội trường lớn, thơ anh chỉ đến với người đọc khi chỉ còn lại một mình đối diện với chính mình, tìm lại mình trong những con chữ lan toả như từng đợt sóng, xâm chiếm choáng ngợp lòng người...

  • TRẦN THIỆN KHANH Inrasara nhập cuộc văn chương từ rất sớm. Ngòi bút của Inrasara chạm được vào những vấn đề cốt tử của nghệ thuật. Inrasara đã sống thực sự với đời sống văn chương đương thời.

  • HUYỀN SÂM - NGỌC ANH 1. Umberto Eco - nhà ký hiệu học nổi tiếng.Umberto Eco chiếm một vị trí rất đặc biệt trong nền lý luận đương đại của Châu Âu. Ông là một triết - mỹ gia hàn lâm, một nhà ký hiệu học uyên bác, một tiểu thuyết gia nổi tiếng và là giáo sư danh dự của trường Đại học Bologne ở Italia. Tư tưởng học thuật của ông đã tác động mạnh mẽ, tích cực đến đời sống trí tuệ của sinh viên và giới nghiên cứu trong suốt nửa thế kỷ qua. Ông có mặt trong danh sách của hai mươi nhà tư tưởng đương đại lớn nhất thế giới, và cũng là ứng cử viên thường trực của Viện Hàn lâm Thụy điển về việc bình chọn giải Nobel văn học.

  • ĐỖ NGUYỄN VIỆT TƯ         (Nhân đọc thơ Hoàng Vũ Thuật)Trong con người cũng như trong vũ trụ luôn luôn hiện diện một mâu thuẫn bất biến, nhờ cái khối mâu thuẫn này mà nó tồn tại, phát triển và trở nên thống nhất. Con người luôn đi tìm chính mình trong một cuộc phiêu lưu vô định, không bao giờ bằng lòng với những cái đã có, bản ngã lúc nào cũng thôi thúc sáng tạo để tìm ra cái mới. Nhà thơ luôn đồng hành với cuộc phiêu lưu của những con chữ để đi đến những miền đất lạ, những vùng cảm xúc.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LANSau mấy tháng mưa tầm tã và lạnh thấu xương, qua đầu tháng chạp âm lịch, toàn khu Hạ Lào bắt đầu tạnh. Mặt trời lại hiện ra đem ánh sáng sưởi ấm những khu rừng bạt ngàn từ Trường Sơn lượn xuống. Ở các suối nước không còn chảy như thác đổ, ở Xê Công dòng nước cũng đã trở lại hiền hòa. Các con đường lớn, đường nhỏ bắt đầu khô ráo.

  • TRẦN ĐƯƠNGTôi được làm quen và có quan hệ cởi mở với nhà thơ Tố Hữu từ mùa thu năm 1973, sau khi ông dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng ta đi dự Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Đức (DKP) họp tại thành phố cảng Hăm-bugr). Từ  miền Tây, ông sang Béc-lin, Cộng hòa Dân chủ Đức, theo lời mời của Bộ chính trị Đảng xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức (SED) với mục đích thăm, nghiên cứu và trao đổi về công tác tư tưởng giữa hai Đảng.

  • TRẦN THÁI HỌCĐến nay, vấn đề giá trị nghệ thuật không còn là vấn đề thời sự được nhiều người trong giới phê bình quan tâm bàn cãi. Sự lắng lại trong không khí phê bình về vấn đề này, vốn đã trải qua một thời kì tranh luận sôi nổi kéo dài hàng chục năm trên văn đàn gắn liền với những quan điểm triết học và mỹ học khác nhau, thậm chí đối lập nhau.

  • HÀ VĂN THỊNH Trên trái đất này, có lẽ chỉ có các nhà thơ mới quan niệm cuộc đời là một trò chơi. Ngay cả Thánh Kinh, khi bàn về lẽ khởi - tận của kiếp người cũng phải than: thân cát bụi trở về cát bụi. Lời nguyền đó là tiếng kêu bi thương từ sâu thẳm của hàng triệu năm đau đớn để sống và, để chết. Từ ngày đầu tiên sinh ra loài người, Adams  đã phải dắt díu Éva trốn chạy khỏi Thiên Đường trong nước mắt và uất hận; đau đớn và tuyệt vọng; cô đơn và sỉ nhục... Đó là những điều ngăn cản việc biến cuộc đời thành một trò chơi.

  • NGUYỄN THAM THIỆN KẾ... Đức Phật, nàng Savitri và tôi sẽ là cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của Hồ Anh Thái, đồng thời nó sẽ giữ ngôi vị lâu dài là tiểu thuyết duy nhất trong văn học Việt lấy cuộc đời giáo chủ Phật giáo làm nguồn cảm hứng. Và sẽ còn lâu lắm văn chương Việt mới có một nhà văn đủ tự tin cũng như tài năng để động vào bàn phím viết về đề tài này. Nó cũng sẽ là thời gian cộng trừ 20 năm, nếu như nhà văn nào đó bây giờ mới bắt đầu tìm hiểu văn hóa Ấn...

  • HOÀNG NGỌC HIẾNNhan đề của tập thơ khiến ta nghĩ Trần Tuấn đặc biệt quan tâm đến những ngón tu từ, mỹ từ của thi ca, thực ra cảm hứng và suy tưởng của tác giả tập trung vào những vấn đề tư tưởng của sự sáng tạo tinh thần: đường đi của những người làm nghệ thuật, cách đi của họ và cả những “dấu chân” họ để lại trên đường.

  • TRẦN ĐÌNH SỬTrong sáng tác văn học của nhà văn Lỗ Tấn, Cỏ dại  là tập thơ văn xuôi giàu tính hiện đại nhất xét về tư duy, tư tưởng và hình ảnh. Tuy nhiên trong một thời gian dài, phẩm chất nghệ thuật này đã không được nhìn nhận đúng mức.