THỤY KHỞI
Lần hồi qua những trang thơ Lê Vĩnh Thái mới thấy chất liệu thơ từ Ký ức xanh (2004), Ngày không nhớ (2010) cho đến nay Trôi cùng đám cỏ rẽ(*) (2012) hẳn là sự hối hả của dòng chảy ký ức miệt mài băng qua những ghềnh thác thời gian, mà ở độ tuổi của anh có thể bị ăn mòn.
Nỗi thống thiết đầy bất lực trước thời gian vô tình đẩy anh vào khoảng trống - trắng của cuộc đời, và... thơ đã lấp đầy như một thứ dưỡng chất đầy hoạt tính cho những trang hoài niệm.
Ví như người thơ đã thảng thốt trước âm vọng xa xăm của tuổi thơ, bên những cánh chim mà nhớ rằng: “bầy chim bồ chao cuối biền nhao nhác nhặt tuổi thơ qua”. Tuổi thơ của bồ chao hồn nhiên “nhao nhác”, lại gắn với hình ảnh của một chòi xóm bên sông “cuối biền” rất đặc trưng tên gọi của Huế. Một tuổi thơ được “nhặt”, có lẽ tuổi thơ ấy vô tình bị bỏ quên trong ký ức đến nỗi tác giả phải “nhao nhác” tranh cái phần thời gian mỏng mảnh, rất đỗi trong veo ấy của đời người.
Và chính tác giả cũng nói lên cái sự lâm li ấy của tuổi thơ: “ngày mười lăm mẹ cầm roi phất vào tuổi nghịch”. Để đến một thời khắc của cuộc đời, người thơ lại thốt lên cái nỗi nhớ bất lực trước thời gian:
nhớ vung từng mảng ngày tôi xa mình
trong cơn xoáy của tuổi ba lăm
(Xuân)
Tưởng như thời gian ở đây được phân tách thành “từng mảnh ngày”, mỗi mảng là một cái tôi (ở từng thời khắc tuổi) bởi nhà thơ đã thấy cái sự hữu lí của tuổi hiện hữu như Heraclis nói: “Không ai tắm hai lần trên một dòng sông”. Người thơ lúc trước chẳng phải là lúc này, đặc biệt là khi đứng trước “cơn xoáy của tuổi ba lăm” đầy ám ảnh.
Nối tiếp ý thơ trên, nếu không biết tựa đề bài này là Xuân, hẳn chúng ta đã quên đi cái thi vị mà thi sĩ đã phát lộ bằng cảm giác:
từ hôm đó tuổi mèo chậm lại
trên cành mai già khụm lộc liêu xiêu
Ở đây, thời gian tâm lí đã thống trị, kìm hãm sự bất kham của con ngựa thời gian “tuổi mèo chậm lại”. Chúng ta đồng cảm với nhà thơ ở giây phút hiện tiền của tuổi “sắp chạm giáp 4”, và khắc khoải trước ảnh xuân “trên cành mai già khụm lộc liêu xiêu”. Có vẻ như người thơ đang tự dỗi mình, oán mình trước tuổi lấy mai già để ví von, để nhận “khụm lộc xuân liêu xiêu” bên thềm “tam thập nhi lập” hãy còn chưa viên mãn.
Hai năm sau, người thơ lại đi vào hành trình của một con lộ mới. Ở đó, ta thấy bước chân thời gian đồng hành:
trên đường ba bảy tuổi tôi
qua nhiều ngõ phố đường ba bảy chiều
(Qua đường ba bảy)
Trên đường ba bảy, qua nhiều ngõ phố, qua nhiều giai đoạn cuộc đời và dù ở bên này dốc nhưng người thơ đã thấy mình đi trên con đường luống tuổi “đường ba bảy chiều” mang đầy tâm trạng. Đứng trước tuổi, nỗi buồn đeo bám và chính tác giả cũng nhận thức được để lựa chọn một sự thật rất lãng du:
đêm nay
tôi đi qua tuổi mình cùng đám cỏ trôi rẽ nhánh trên sông
Không những bàng hoàng, nuối tiếc trước thời gian chạy đua cùng tuổi mình, người thơ còn bị ám ảnh bởi những biểu tượng đè nén của thời gian. Đó là phút giây thập tử của người cha thân yêu:
con nghe chiếc đồng hồ
trong lồng ngực Ba tích tắc... tích tắc
(Cho con về lại một ngày)
Đồng hồ, vật đo thời gian thông dụng nhất, đo cả sự sống, đo cả những dự cảm nhói lòng:
chiếc đồng hồ rụng kim
vòng quay chưa định
người đi tới
người lùi sau
dấu chấm lửng
trắng...
(một ngày vừa qua)
“Dấu chấm lửng” ngẩn ngơ tiếc nuối, trắng không gian, trắng trí tưởng, trắng cả sự hiện hữu của “vòng quay chưa định”. Một kết thúc - nỗi buồn thương đau đớn vô hạn của người thơ - người con trước cảnh tang:
đoàn người ẩm bế Ba qua đoạn đường dài hơn hơi thở
biền biệt cõi người
(Ngơ ngác chiều tháng chín tàn thu)
Câu thơ “đoạn đường dài hơn hơi thở” mang triết lý, rằng sự sống ấy dài lâu qua mỗi hơi thở, hơi thở tiếp theo có thể không đến sau khi hơi thở này kết thúc. Khi ấy con người đã đi vào cõi chết, một sự thật phải thừa nhận. Bởi nhà thơ đã ý thức được cuộc sống thực sự là không chắc chắn trong từng khoảnh khắc.
Không dừng ở đó, trong một bài thơ khác, “hoảng loạn tìm đàn”, tác giả tiếp tục cho chúng ta lời giải tạm về một định nghĩa, lí ra là thê lương đau khổ:
lần bẩn cuối cùng
lần sạch tận giấc ngủ chết
bầy chuột trở về cõi sạch từ kiếp chưa khai
ngày hóa thân làm chứng
cho sự tuyệt vọng một lời điên đang bần bật
(Hoảng loạn tìm đàn)
Cái chết được ví như “lần bẩn cuối cùng/ lần sạch tận giấc ngủ chết” để bước ra - tái sinh “cõi sạch từ kiếp chưa khai”. Phải chăng người thơ đã hoảng loạn, hoảng loạn trước thời gian, kẻ thù vô hình, luôn hiện diện mọi lúc mọi nơi, nhắc nhở ta bằng nhịp tích tắc... tích tắc như một thắc thỏm định mệnh. Sự hiện diện của luân hồi mà người thơ xác tín qua những từ cõi - kiếp - hóa thân đã cho thấy người thơ tin tưởng vũ trụ này, sự sống này, nhân thế này, văn minh này… chẳng có gì được sinh ra mà không bị suy vong. Có thịnh tất suy, sinh - tru - dị - diệt là chân lí bất biến. Và tất cả lại được tái sinh theo vòng quay vi diệu của pháp luân thường chuyển.
Thời gian có thể giúp con người hoàn thành được những hoài bão và chôn vùi hoài bão. Vì thế, thời gian là người bạn đồng hành và cũng là kẻ thù của con người. Người ta mong muốn vượt qua nó, cố quên nó trong khi chính nó đang mỗi ngày gặm nhấm sự tươi trẻ, minh mẫn của thân xác và trí tuệ.
Để biểu đạt thời gian, trong một bài thơ khác, ở một biên độ mà Lê Vĩnh Thái đã vượt thoát chính mình, vượt thoát cả tập thơ để nhường chỗ cho một sự định vị mới:
sông đã chảy từ một chiều hun hút
người chờ nhau hun hút chiều sông
trong một ngày đắng cay hun hút
mưa vỡ qua đời thấp thỏm đứng khóc sông
(Về một con sông)
Thời gian được người thơ tri cảm ở một trạng thái sâu, mơ hồ “chiều hun hút”. Và nó đánh đồng cùng trạng thái của sông “hun hút”, của xúc cảm “đắng cay hun hút”. Thủ pháp lặp từ được vận dụng triệt để mà linh hoạt, biến chuyển phù hợp với từng dụng thể. Câu kết đi về trạng huống cuối cùng của thời gian “mưa vỡ qua đời” để rồi “thấp thỏm đứng khóc sông”. Một hình ảnh thơ đẹp, ươm mộng ngay trên chính những giọt mưa bong vỡ cuộc người mà than khóc trên dòng sông “không ai tắm hai lần”. Có thể nói, đây là khổ thơ hay nhất trong bài thơ (hay cả tập thơ) mà người thơ hoài thai dựng nên trong dung môi vô tận của thời gian.
Sông trở thành người bạn, thành đối tượng ví von để khỏa lấp đi nỗi khắc khoải trước những thời khắc xoay vòng:
sông trôi phẳng như tờ giấy vụt rơi trên nụ hôn buổi chiều
(Sầu khúc)
Hình ảnh sông được ví “như tờ giấy vụt rơi trên nụ hôn buổi chiều”, vẫn chiều, vẫn rơi dù là sông nhưng đã được cán phẳng cái ranh giới bộn bề e sợ trước thời gian.
Cũng ở bên sông, thời gian ghé đến như một chu kì thường niên:
con bói cá giấu mùa trong cánh mỏng
bìm bịp ập à
nước dâng
(Ngôi nhà đầy tiếng còi tàu bên sông)
Ở một thi cảnh khác, thời gian đồng hành cùng nỗi đơn độc được giãi bày và người thơ chìm trong viễn mộng:
đã mấy mùa ta ôm chiều rớt bóng
như thằng điên
ăn vụng thoáng em qua
(Chợt nhớ)
Mùa - chiều - thoáng đã làm gầy trí tưởng của kẻ “ôm chiều rớt bóng” mà điên rằng chỉ còn là nỗi ngây ngô chân thật “ăn vụng thoáng em qua”. Đồng cảm với tâm trạng đó của người thơ, hẳn chúng ta trong đời ít nhất một lần điên trong khoảnh khắc phóng tình ấy.
Cuộc chạy đua với thời gian, con người chỉ là vận động viên nghiệp dư, một kẻ tôi đòi không hơn không kém. Thời gian có đủ quyền năng để tạo nên tất cả và làm biến mất tất cả. Hiểu như thế mới biết chúng ta - con người chẳng là gì cả trong dòng chảy vô tận của thời gian. Lê Vĩnh Thái trong những thời khắc của cuộc đời “qua đường ba bảy” đã khóc cười trong sáng:
trên giao cảm những con mắt trong veo thẳm sâu khóc cười thành vết
Dừng lại đây thôi, này hỡi những đoạn đường, “mắt trong veo” đó trên những mối giao cảm với thời gian chỉ để lại những vết sẹo buồn vui lồi lõm “thẳm sâu khóc cười thành vết”. Lê Vĩnh Thái đi trên bước chân bị thời gian ăn mòn, qua những tuổi tàn phai ký ức và thơ trồi lên như một lời thị chứng. Đứng trước cuộc đời, dùng thơ đúc ký ức, hoài niệm cũng là một cách, nhưng quan trọng vẫn là đúc như thế nào. Những câu thơ, khổ thơ được chắt lọc ra từ “Trôi cùng đám cỏ rẽ” phần nào cho thấy được những lung linh trong tập thơ thứ ba này của Lê Vĩnh Thái. Người viết chỉ tiếc một điều là giá như những câu thơ ấy nằm trong một thi cảnh khác, hội thêm các yếu tố nội cảm sâu dày, lập ngôn, lập ý và lựa chọn một thi pháp đủ đầy để đẩy thuyền thơ chở đi xa hơn có thể.
Ít nhiều trong các bài thơ của mình, nhà thơ bị mê mị đi bởi những luồng chảy của cảm xúc, bị cảm xúc lấn át và làm mờ trí tưởng, khiến cho sự phân chất chưa thật rạch ròi.
Sự khắc khoải triền miên của một con người bên trường thời gian hun hút là nỗi ám ảnh lớn nhất của Lê Vĩnh Thái trong tập thơ này. Đó là những xao động về sự lướt qua vô ý của thời gian kéo theo sự trở về của những mảnh hồi ức nối ghép, đồng vọng cùng thanh âm của những thời khắc hoang hoải kiếp người.
T.K
(SH290/04-13)
---------------------
(*) Trôi cùng đám cỏ rẽ - tập thơ - Lê Vĩnh Thái, Nxb. Văn học, 2012.
Ý NHI
1.
Một buổi chiều, khoảng cuối năm 1989, chúng tôi có cuộc gặp gỡ tại nhà Trần Thị Khánh Hội, trong một con hẻm rộng, quận Phú Nhuận.
TRẦN HOÀI ANH
(Kỷ niệm 49 năm ngày mất cố Thi sĩ Nguyễn Bính 1966 - 2015)
DƯƠNG PHƯỚC THU
Kể từ lúc thị xã Huế được nâng lên cấp thành phố, cho đến khi người Nhật làm cuộc đảo chính hất chân người Pháp khỏi đông Dương vào ngày 9/3/1945 thì Huế vẫn là thành phố cấp 3, nhưng là thành phố của trung tâm chính trị, văn hóa, nơi đóng kinh đô cuối cùng của nhà nước quân chủ Việt Nam.
HỒ VĨNH
Thi hữu Quốc Hoa Nguyễn Cửu Phương là một thành viên trong hội thơ Hương Bình thi xã do Ưng Bình Thúc Giạ Thị làm hội chủ. Năm 1933 thi đàn đặt tên là Vỹ Hương thi xã, qua năm 1950 các thi hữu bắt đầu đổi tên Vỹ Hương thi xã thành Hương Bình thi xã.
Mùa xuân chiếm một ví trí quan trọng trong thơ Nguyễn Trãi. Xuân hiện lên bằng nhiều vẻ dáng khác nhau, được khắc họa bằng nhiều cung bậc khác nhau. Mỗi một bài thơ xuân như là một trang nhật kí và cảm xúc của cuộc đời thi nhân.
Đọc sách Lý Thường Kiệt - Lịch sử ngoại giao và tông giáo triều Lý (ảnh, NXB Khoa học xã hội, Sách Khai tâm, quý 1/2015) của Hoàng Xuân Hãn là cách để “gặp lại” danh tướng Lý Thường Kiệt.
CAO HUY THUẦN
Từ trong mênh mông, một sợi mưa rơi vào lá sen. Nước vốn không có hình. Nằm trong lá, nước tròn như một viên ngọc, tròn như một hạt lệ, tròn như một thủy chung. Gió thoảng qua, lá sen lay động, nước rơi không để lại một dấu vết, rơi như chưa bao giờ có, rơi như một hững hờ.
NGUYÊN QUÂN
Những lúc bứt thoát được những hệ lụy cuộc sống, tôi chỉ thích được lang thang lên mạng, mong bắt gặp một câu thơ, một dòng văn nào đó gần gũi với tâm trạng để ru dỗ mình bằng những phút giây đồng điệu.
Trong các nhà thơ hiện đại Việt Nam, Tế Hanh có dáng vẻ của một thi sĩ hơn cả, không phải chỉ bởi “đôi mắt nồng nàn lạ” (Hoài Thanh-Hoài Chân: Thi nhân Việt Nam) mà còn là, hay chính là, bởi vẻ buồn ngơ ngác của ông, không phải chỉ trên vẻ mặt mà cả trong cách hành xử, ứng đối của ông với mọi người, mọi sự.
DA VÀNG
(Đọc tập thơ Tùng Gai của Bạch Diệp, Nhà xuất bản Văn Học, 8/2014)
NGUYỄN VĂN NHẬT THÀNH
Đồng hành cùng cuộc chuyển mình lớn lao của đất nước, văn học Việt Nam sau 1975 chứng kiến cuộc vật lộn âm thầm nhưng quyết liệt của bao văn nghệ sĩ trên hành trình tìm kiếm “sinh lộ” mới cho văn chương Việt.
Kỷ niệm 70 năm thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam (22/12/1944 -2014), NXB Quân đội Nhân dân vừa ấn hành cuốn sách Về cội nguồn Quân đội Nhân dân Việt Nam.
YẾN THANH
“Nếu nói một cách đơn giản rằng Đông phương luận hiện đại là một khía cạnh của cả chủ nghĩa đế quốc lẫn chủ nghĩa thực dân thì sẽ ít ai có thể tranh cãi được. Tuy nhiên, nói như thế chưa đủ. Cần phải trình bày nó một cách có phân tích, có tính lịch sử”. [Edward Wadie Said, Đông phương luận, Nxb. Tri thức, 2014, tr.200]
NGUYỄN KHẮC VIỆN
Với một Gavroche, Victor Hugo đã viết nên những trang bất hủ. Trẻ em của chúng ta đã anh dũng, hồn nhiên tham gia cuộc đấu tranh trường kỳ gian khổ của cha anh, dẫu chỉ một vài cá nhân; thế mà sách vở về mặt này còn quá ít. Nhà văn Việt Nam còn mắc nợ các em rất nhiều.
"Hạnh phúc tại tâm" là cuốn sách mới nhất của Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa được dịch ra tiếng Việt. Sách chỉ ra hạnh phúc nằm trong bản thân mỗi con người, ở từng thời điểm chúng ta sống.
LÊ MINH PHONG
Chúng ta không rũ bỏ được Thượng Đế
Vì chúng ta vẫn tin vào ngữ pháp
(Nietzsche)
DƯƠNG PHƯỚC THU
Chiều ngày 12/5/2014, tôi nhận được món quà vô cùng quý giá, đó là cuốn sách Hải Triều Toàn Tập do chính gia đình của Nhà văn hóa, Nhà báo Hải Triều gửi tặng.
Nhà văn Trang Thế Hy đã bước vào tuổi 90. Một đời viết kéo dài suốt 70 năm, ông không viết nhiều nhưng hễ công bố tác phẩm là làng văn phải “giật mình”
Xin nói ngay rằng, đọc tập truyện Giọt nước mắt màu đất của Đức Ban (NXB Hội Nhà văn 2014), với tôi Chốn xưa là một truyện ngắn hay.