Thời bao cấp, văn nghệ sĩ sống và viết thế nào

09:04 20/12/2016

Nhà văn Ngô Minh nhớ ông và bạn văn cứ gặp nhau là đọc thơ và nói chuyện đói khổ, còn nhà thơ Anh Ngọc kể việc bị bao cấp về tư tưởng khiến nhiều người khát khao bày tỏ nỗi lòng riêng.

Nhà văn Ngô Minh sống ở Huế. Ông vừa ra mắt cuốn sách Sống thời bao cấp, trong đó có chương viết về đời sống của văn nghệ sĩ những năm này.

Ông chia sẻ trong thời bao cấp, cuộc sống văn nghệ sĩ Nhà nước dễ chịu hơn vì có lương, có tem phiếu nên không sợ đói. Tác phẩm viết ra in theo kế hoạch, phân phối cho thư viện khắp cả nước, viết theo đề tài được chỉ đạo, không lo ế. Văn nghệ sĩ không thuộc biên chế Nhà nước phải làm nhiều việc khác để kiếm ăn.

Trong cuốn sách, nhà văn kể về đời sống của nhiều bạn văn với đủ kiểu làm ăn “cười ra nước mắt”. Nhà văn Nguyễn Khắc Phê ngăn gian bếp để nuôi heo, rào ban công cửa sổ nuôi gà. Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo từng theo phong trào xây bể xi măng nuôi cá trê phi nhưng cá chưa kịp lớn đã gọi bạn bè đến nhậu. Cuối cùng, cá sợ không lớn nữa, Nguyễn Trọng Tạo phải đập bỏ bể nuôi, mất đến gần một cây vàng tiền vốn.

thoi-bao-cap-van-nghe-si-song-va-viet-the-nao

Những câu chuyện bạn văn thời bao cấp được nhà văn Ngô Minh tái hiện trong sách.

Ngô Minh còn kể những câu chuyện minh họa sống động cho đời sống nghệ sĩ thời tem phiếu như việc nhạc sĩ Trịnh Công Sơn ngồi ghi danh sách hội viên để báo cơm và thu tem gạo tại cửa ra vào của Đại hội Văn nghệ Bình Trị Thiên lần thứ nhất, năm 1978. Nhiều nhà văn, nhà thơ ở Huế - gồm vợ chồng Hoàng Phủ Ngọc Tường, Lâm Thị Mỹ Dạ - cùng đạp xe 14 cây số đi vỡ đất trồng khoai sắn, tăng gia sản xuất. Cuối cùng, khi thu hoạch mỗi người chia nhau được đúng vài lạng.

Ngô Minh chia sẻ dù đời sống khó khăn, thiếu thốn, văn nghệ sĩ thời này rất vui. “Thời đó văn nghệ sĩ chúng tôi mỗi khi gặp nhau trước tiên là đọc cho nhau nghe những sáng tác mới, rồi đến kể chuyện đói khổ, vất vả và sau đó bàn chuyện người này bị cấm viết cái này, cái kia”, nhà văn nói.

Theo các nhà văn, giai đoạn này người sáng tác đa phần phải viết theo định hướng. Người nào viết về những điều riêng tư, thầm kín thường bị soi xét.

Nhà thơ Anh Ngọc nhận định: “Chúng ta ra khỏi chiến tranh nhưng chiến tranh chưa ra khỏi chúng ta. Bao cấp có nghĩa là phân phối theo kiểu trại lính, trước hết là về kinh tế, đời sống vật chất, rồi đến đời sống tinh thần cũng vậy. Với văn học nghệ thuật thì, dùng từ của nhà văn Vũ Hạnh, nhà thơ Lưu Quang Vũ là 'bao cấp về tư tưởng', văn học mang chức năng 'minh họa' cho những tư tưởng chủ trương có sẵn chứ không do nhu cầu thực của chính cuộc sống”.

Ảnh 2: Tại Đại hội nhà văn năm 1989, một cuộc đại hội có đấu tranh tư tưởng rất mạnh giữa hai phía chính kiến khá khác nhau về văn học, Anh Ngọc (đứng, đeo kính) và nhiều nhà văn nhà thơ, nhà phê bình: Lại Nguyên Ân, Thái Bá Lợi, Diệp Minh Tuyền, Dương Thu Hương v.v...

Năm 1989 - Đại hội nhà văn được tổ chức với cuộc đấu tranh tư tưởng rất mạnh giữa hai phía chính kiến khác nhau về văn học. Nhà thơ Anh Ngọc (đứng, đeo kính) và nhiều nhà văn nhà thơ, nhà phê bình: Lại Nguyên Ân, Thái Bá Lợi, Diệp Minh Tuyền, Dương Thu Hương... bên lề Đại hội. Ảnh: Nhà thơ Anh Ngọc cung cấp.

Điều này không chỉ tồn tại trong văn học mà cả các loại hình nghệ thuật khác. Sau năm 1975, chiến tranh tạm chấm dứt nhưng theo nhà sử học Dương Trung Quốc, quán tính đời sống và tư duy thời chiến vẫn chưa thay đổi. Trong 10 năm từ 1976 tới 1986, việc kiểm duyệt văn hóa, văn nghệ khá khắt khe. “Văn Cao có ca khúc về mùa xuân thanh bình nhưng cũng gặp khó khăn vì theo tư duy thời chiến, những tư tưởng nghỉ ngơi, yên bình hay yêu đương là không phù hợp”, ông Dương Trung Quốc nói. Không chỉ Văn Cao, rất nhiều ca khúc của Trịnh Công Sơn về tình yêu, phản chiến, về suy tư đời sống cũng bị cấm.

Nhà thơ Anh Ngọc kể trong cuộc gặp khoảng năm 1982 - 1983, nhà thơ Xuân Diệu nói với ông về câu thơ của Chế Lan Viên viết trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ:

“Những năm đất nước có cùng tâm hồn, có chung gương mặt
Nụ cười tiễn đưa con nghìn bà mẹ như nhau”

Xuân Diệu cho rằng đã đến lúc phải nhìn nhận lại. “Xuân Diệu nói rõ ràng việc mẹ tiễn con đi vì việc nước là điều tự nguyện. Về mặt duy lý thì là niềm vui, nhưng xét theo bản năng gốc của con người thì bà mẹ không thể nào vui được. Dù mọi người đều thấy bà mẹ cười, ông nhà thơ vẫn phải nhìn thấy sau nụ cười đó là giọt nước mắt, là một nỗi đau”, nhà thơ Anh Ngọc kể.

Lần khác, khoảng vào năm 1985, không lâu trước khi Xuân Diệu mất, khi trò chuyện vui nhân Anh Ngọc đến chơi, Xuân Diệu hỏi: "Này, em có biết ăn qua loa nghĩa là gì không? Ăn qua loa nghĩa là ăn qua cái loa phóng thanh đầu ngõ đấy”, ám chỉ giai đoạn mọi hoạt động của người dân đều được định hướng qua loa tuyên truyền. Xuân Diệu còn nói: “Em có biết mục tiêu của kế hoạch 5 năm là gì không? Là làm sao đến năm 1985 thì đời sống bằng được năm 1980”. Theo nhà thơ Anh Ngọc, câu nói cho thấy Xuân hiểu thực tế đời sống ngày ấy đã đến đoạn “cùng tắc biến” như thế nào rồi. Xuân Diệu là nhà thơ tình nổi danh giai đoạn trước 1945. Theo cách mạng, ông cũng như nhiều người sáng tác khác tự nguyện dẹp cái tôi để hòa vào cái ta của dân tộc. Tuy nhiên, trong lòng nhà thơ luôn nhớ và đặc biệt sau khi chiến tranh chấm dứt, ý thức về cái tôi nghệ thuật trong sáng tạo của nhà thơ vẫn nguyên vẹn.

Bản thân nhà thơ Anh Ngọc trong giai đoạn này đã viết bản trường ca Điệp khúc vô danh (năm 1983) mà ông nói là viết trong đêm cuối cùng của kỷ nguyên bao cấp”.

Những câu thơ chứa đựng khao khát được nói thật:

“Tôi đi qua tuổi học trò
Nói năng khuôn phép câu thơ sáo mòn
Cười mình quen thói đại ngôn
Thương vay khóc mướn véo von một thời
Câu thơ dẫu viết xong rồi
Vẫn như thấy thiếu một lời ở trong
Một lời thốt tự đáy lòng
Một lời vẽ được chân dung của mình”

Những câu thơ mãi tới Đổi mới năm 1986, khi nhà văn Nguyên Ngọc làm tổng biên tập báo Văn Nghệ, mới được in trọn vẹn cả chương.

- Ảnh 1: Anh Ngọc (ngoài cùng bên phải) cùng các họa sĩ, nhà điêu khắc (Nguyễn Văn Đôn, Nguyễn Thị Kim, Lương Xuân Nhị, Sĩ Ngọc...) lên Điện Biên Phủ đi thực tế, năm 1978.

Anh Ngọc (ngoài cùng bên phải) cùng các họa sĩ, nhà điêu khắc (Nguyễn Văn Đôn, Nguyễn Thị Kim, Lương Xuân Nhị, Sĩ Ngọc...) lên Điện Biên Phủ đi thực tế, năm 1978. Ảnh: Nhà thơ Anh Ngọc cung cấp.

Theo nhà thơ Anh Ngọc, 10 năm từ 1976 tới 1986 là bước đệm để đất nước chuyển từ hình thái bao cấp thích nghi với thời chiến trở về cuộc sống bình thường, với dấu mốc chuyển đổi là công cuộc Đổi mới. “Người ta biết rằng đã đến lúc phải thay đổi. Văn học phải được trả lại đúng vị trí của nó, đó là đi vào những cái riêng tư sâu kín nhất của con người bình thường, có ở mọi nơi và mọi lúc”.

Theo Anh Hoàng - vnexpress

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009 và hết)

  • Nguyễn Khắc Phê quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Anh xuất thân trong một gia đình trí thức. Bố anh từng đậu Hoàng Giáp năm 19 tuổi. Các anh trai đều là bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi... Có người nói vui “Nguyễn Khắc Phê con nhà quan tính nhà lính”.

  • VĂN CẦM HẢI(Đọc “Ngôi nhà vắng giữa bến sông”, Tập truyện ngắn của Nguyễn Kiên - Nxb Hội Nhà văn, 2004)

  • NGUYỄN QUANG SÁNGMấy năm gần đây, dân ta đi nước ngoài càng ngày càng nhiều, đi hội nghị quốc tế, đi học, đi làm ăn, đi chơi, việc xuất ngoại đã trở nên bình thường. Đi đâu? Đi Mỹ, đi Pháp, đi Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc... Nhà văn Văn Cầm Hải cũng đi, chuyến đi này của anh, anh không đi những nơi tôi kể trên, anh đi Tây Tạng, rất lạ đối với tôi.

  • HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.

  • LÊ VĂN THÊSau sáu năm (kể từ 2002) nhà văn Cao Hạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, (cuối năm 2008); Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị mới có thêm một nhà văn được kết nạp. Đó là Văn Xương.

  • NGÔ MINHTrong đợt đi Trại viết ở Khu du lịch nước nóng Thanh Tân, anh em văn nghệ chúng tôi được huyện Phong Điền cho đi dạo phá Tam Giang một ngày. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thế là người dẫn đường. Anh dân sở tại, thuộc lòng từng tấc đất cổ xưa của huyện.

  • PHẠM PHÚ PHONG…Làng em đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê em kết nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGKể từ tập thơ đầu tay (Phía nắng lên in năm 1985), Huyền thoại Cửa Tùng (*) là tập thơ thứ mười (và là tập sách thứ 17) của Ngô Minh đã ra mắt công chúng. Dù nghề làm báo có chi phối đôi chút thì giờ của anh, có thể nói chắc rằng Ngô Minh đã đi với thơ gần chẵn hai mươi năm, và thực sự đã trở thành người bạn cố tri của thơ, giữa lúc mà những đồng nghiệp khác của anh hoặc do quá nghèo đói, hoặc do đã giàu có lên, đều đã từ giã “nghề” làm thơ.

  • Võ Quê được nhiều người biết đến khi anh 19 tuổi với phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam (1966). Lúc đó, anh ở trong Ban cán sự Sinh viên, học sinh Huế. Võ Quê hoạt động hết sức nhiệt tình, năng nổ bất chấp nguy hiểm với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá vào chính nghĩa.

  • PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.

  • ĐẶNG TIẾNNhà xuất bản Trẻ, phối hợp với Công ty Văn hoá Phương Nam trong 2002 đã nhẩn nha ấn hành Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, trọn bộ bốn cuốn. Sách in đẹp, trên giấy láng, trình bày trang nhã, bìa cứng, đựng trong hộp giấy cứng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 244 tháng 6-2009)Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháuDiệu Linh, và những người bạn khác,lớn lên trong những hoàn cảnh khác.

  • NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".

  • HOÀNG KIM DUNG      (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập  truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)

  • PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...

  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?