Thơ xứ Huế 2009 - một năm nhìn lại

09:40 28/12/2009
Thơ không thể tách rời đời sống con người. Điều đó đã được thời gian minh chứng. Từ lời hát ru của mẹ, những giọng hò trên miền sông nước,… đã đánh thức tình yêu thương trong mỗi chúng ta.

Ngoài ý nghĩa đó, thơ còn là sự cứu rỗi để có những lúc nản lòng vịn câu thơ mà đứng dậy, đó là nỗi lòng của Phùng Quán khi sống trong một vòm trời đầy rẫy dã tâm, nghi kỵ. Hoặc trong cô đơn cùng tận, Hàn Mặc Tử đã tâm sự trong bài Cuối Thu:

Lụa trời ai dệt với ai căng,
Ai thả chim bay đến Quảng Hàn
Và ai gánh máu đi trên tuyết,
Mảnh áo da cừu ngắm nở nang

Ôi, hình ảnh người gánh máu trên tuyết cũng chính là hình ảnh cô độc của thi nhân giữa trần gian. Khi những giá trị đích thực đã bị những thế lực đen cưỡng đoạt, thì thơ chính là hơi thở, là máu và nước mắt,… là niềm hy vọng cuối cùng của con người. Khi mà mọi giá trị bị đảo ngược, trắng đen lẫn lộn,… thì thơ trở thành luồng sáng tinh khôi xoá nhòa những u tối cuộc đời. Nhưng để có được những vần thơ thần diệu, nhiều khi tác giả phải trải qua cơn đau mà thể xác không thể nào gánh vác nổi. Điều đau đớn đó một Êxênhin ở nước Nga đã trải nghiệm, một Maia đã đi qua, một A.Camus đành hành xử như một điều phi lý, một Hemingway đã tan theo sóng biển,... Đó là những con người thơ. Trong đời sống thường nhật của chúng ta đã có biết bao người phải đối diện cảnh chia lìa trong tận cùng nỗi đau, cho dù những con người đó không bao giờ làm thơ. Và trên xứ sở thơ mộng này, thi ca vẫn ngầm chảy trong lặng im, chảy về một chân trời diệu tưởng, nơi có cánh rừng của những giấc mơ.

Trong dòng chảy của thi ca của xứ Huế, với cái nhìn cắt đoạn, tôi không có ý đánh giá hay tổng kết mà chỉ xin được điểm xuyết những tập thơ trên đất Huế vừa ấn hành trong năm 2009 vừa qua như một tản mạn, hay một sự nhìn lại, đe góp thêm phần minh chứng cho đời sống thi ca ở xứ Thần Kinh.

Đầu năm 2009 xuất hiện tập “Đếm thời gian” của thầy giáo Lê Ngã Lễ với vần điệu lục bát quen thuộc. Tập “Nhật thực” của tác giả Nhất Lâm, tập “Ta say vì nàng” của bác sĩ Phạm Xuân Phụng là hai tập thơ đã khiến người đọc nửa khóc nửa cười trước những hiện thực xã hội đầy rẫy những điều nhức nhối.

Với “Vị mặn hồi sinh”, tác giả Hải Trung đã gửi lại trong lòng người đọc ít nhiều trăn trở trước những nỗi đau của chiến tranh, của sự tàn ác, của âm mưu từ những kẻ vô nhân tính. Cho dù anh đã cảm nghiệm về cuộc đời như: cốc rượu thừa tràn xuống vỉa hư vô. Để rồi có những lúc, chúng ta lầm tưởng và hy vọng điều gì mới mẻ, nhưng lại chỉ là:

những vệt mòn thành quen
đường lâu ngày không đi thành mới…

Vậy đó, những trăn trở trước vô biên, hay những ma lực đang hiện hữu khắp nơi trong xã hội và thời gian rồi sẽ cuốn trôi, sẽ trả lời cho chúng ta và cũng là niềm hy vọng của sự bất lực, điều đó được thể hiện trong bài “Thời gian”:

những ban mai này sẽ dày thêm những bình minh khác

những đứa trẻ này sẽ làm nên những người lớn khác

những bài thơ mới sẽ thành những vần điệu cũ/ con chữ ngoằn ngoèo hổn hển với tháng năm/ thời gian tràn lên vỉa giấy/ mực buông xuôi chảy như thác dòng dòng.

Phải chăng, đó là những cảm nghiệm của tác giả hay là lời ta thán cho một mùa đau, để những hình ảnh trong nghị trường đọng thành câu chữ:

những cánh tay dong cao nhiều lúc chưa chắc đã cao hơn vài cánh tay không dong khác/ ta nhiều lúc chẳng làm gì nên cháo nên cơm/ thời gian nhiều lúc nung màu gạch đỏ/ em bước ra sau những giận hờn

Tập thơ “Nết” của tác giả Vĩnh Nguyên với những trăn trở trước sự xâm thực văn hóa vào làng quê và hình ảnh thân thương ẩn hiện dưới lớp ngôn từ mộc mạc, như trong bài “Làng Vĩnh củ đậu”:

Trở về làng/ Tôi buồn/ Củ đậu đặc sản oai phong độc canh độc quyền không có/ Lại thèm một miếng chửi “làng Vĩnh củ đậu” cũng không/ Vĩnh Tuy yêu dấu ơi!/ Tôi yêu làng!/ Tôi muốn làng Vĩnh Tuy xưa tháng hai bắp non tháng tư đậu ngọt/ Bây giờ sao không?

Tập “Những xưa và cũ” của tác giả Ngữ An là những hoài niệm đẹp và buồn đọng vào ký ức cũ xưa. Tập “Điếu thuốc và que diêm” của nhà giáo Mai Văn Hoan vơi nhiều hình ảnh lãng mạn trữ tình khi về thăm lại khu vườn ngày cũ:

Tôi đứng lặng trước sân nhà vắng vẻ/ Chiều âm u ảm đạm đến não lòng/ Gốc mai già cứ thu mình lặng lẽ/ Hoa trái mùa thưa thớt cuối trời đông
                                    (Thăm lại vườn xưa)

Hay trong bài “Hoàng hôn trên cầu Bãi Dâu”:
Lẳng lặng lên cầu Bãi Dâu/ Chếnh choáng vần thơ hái muộn/ Mây chiều chập chờn sà xuống/ Lập lòe đốm lửa ven sông

Và giữa những đổ nát hoang tàn của quá khư và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, lại có một Nguyên Quân tìm đến Hộ Thành Hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hổn hênh mọi thứ, như chợt nhận ra niềm hy vọng mong manh, anh đã “Viết bên Hộ Thành Hào”. Để rồi mỗi ngày anh phải đối diện với:

những gương mặt thất thần/ mù tuổi - mù tên - mù những điều không thật.

Cả hai trạng thái kia là đều diễn đạt sự thật của một tâm hồn. Chỉ e rằng, trong thời đại này, những điều không thật lại được quá nhiều người nhào nặn qua lớp ngôn từ ngụy trá để đánh lừa ngay chính mình và cả người đọc.

Và giữa những ngày mưa mịt mù, tác giả đã tâm sự cùng con búp bê đời rẻ rung đã bị những thằng người bệnh hoạn, chơi ngông ném trong từng góc tối, ôi những thằng người ngụy tín, xa rời với tổ tiên:

ơi con búp bê đời rẻ rúng ném trong từng góc tối/ ngủ qua đêm ác mộng/ vòng xoáy tâm thần/ tran truồng vòng tay lạ lẫm/ cổ thành dày cơn mưa/ phủ rêu con đường lát đá tháng chạp/ hãy giặt sạch từng mùa gió chướng/ gột rửa bệnh hoạn của những thằng người/ chơi ngông/ như đốm pháo hoa bắn thẳng lên trời/ chớp sang những quyền năng hư ảo

Khi đã nhận ra những quyền năng hư ảo, tác giả đã:

đặt bàn tay bỏng rát lên bệ thờ âm vật
và cảm nhận
quá khứ phất phơ trên từng bông phượng cúng
ta ôm chiếc bình ngũ sắc
bơi qua dòng nại hà
hóa vàng tuổi đời cho từng bia mộ

Với tập “Như một nỗi đời riêng” của Từ Nguyễn và tập “Bất ngờ” của tác giả Nguyên Hạnh là những niềm xúc cảm của hai tác giả nữ. Trong bài “Giọt đắng” Từ Nguyễn như cảm nghiệm được sự chơi vơi giữa nếp gấp cuộc đời:

Nét gấp khúc của cuộc đời,/ Những mệnh số chơi vơi.../ Tung tẩy trên bàn tay trêu đùa của Thượng đế/ Thôi nhé em/ Đừng mắt hoen ngấn lệ/ Giọt đắng chưa khô là chưa đến tận cùng!

Và trong cuộc đi “Tìm phiên bản” Nguyên Hạnh chợt nhận ra:

Tôi và em/ Một trực giác tồn tại/ Ta thả ký ức trở về/ tìm phiên bản/ Hồng hoang.

Tập “Đi qua cánh rừng” của Hạ Nguyên (Hồ Đăng Thanh Ngọc), dẫn dắt người đọc liên tưởng đến tác phẩm Lâm Đạo (Đường đi trong rừng) của Bùi Giáng. Bùi tiên sinh như muốn nhắc chúng ta rằng, trong khu rừng nghệ thuật không có sẵn một con đường nào cả, mà nhiệm vụ của một người nghệ sỹ phải khai phá cho mình một lối đi. Khi chúng ta lạc lối giữa đại ngàn thăm thẳm, chúng ta phải tự tìm một con đường, cho dù không biết nó sẽ dẫn dắt chúng ta về đâu? Trong thi ca, mỗi người làm thơ phải chọn con đường cho chính mình, hay nói cách khác mỗi nhà thơ phải sống trong thế giới xúc cảm của riêng mình, rồi sử dụng vốn ngôn từ và tài năng diễn đạt để chia sẻ cảm xúc với người đọc. Có lẽ trong mỗi con người đều có một cánh rừng mà trước sau gì chung ta phải vượt qua. Và tất cả những cánh rừng trong mỗi cá thể đã hình thành nên một đại ngàn thăm thẳm của xã hội. Chúng ta hãy nhìn Hạ Nguyên đi qua cánh rừng của chính anh:

Tôi đi qua cánh rừng bằng bước chân trẻ con
Và nỗi ám ảnh cổ tích cô bé quàng khăn đỏ

Đúng vậy, tất cả chúng ta thật nhỏ bé khi đối diện với núi rừng và chỉ có những tâm hồn thơ trẻ mới bước qua được, cũng như muốn đến với đấng toàn năng, không cách nào hơn là chúng ta đồng hóa với chính Người, mà cách đồng hóa nhanh nhất là trở thành con của Người.

Dù không có chiếc khăn quàng đỏ nào và chỉ với chiếc áo rách mỏng manh và đôi giầy bẩn thỉu nhưng cậu bé đã vâng lời mẹ dặn để đem cháo đến cho bà, cho dù cậu bé rất thích những trò chơi của trẻ thơ.

Tôi đã không rong chơi với cỏ cây - dẫu tôi thích thế
Tôi đã không hái hoa vờn bướm - dẫu tôi thích thế
Và cũng đã không nằm dưới bóng cay lắng nghe tiếng chim -
dẫu tôi thích thế

Ở đây, tác giả như muốn nhắn nhủ đến người đọc một định nghiệp của mỗi cá nhân, cũng chính là quán tính của xã hội đã xô đẩy tâm hồn của tuổi thơ vào những ngã rẽ đen tối. Điều thương tâm đó chính là sản phẩm của nền giáo dục còn nhiều bất cập, sự bùng nổ của hệ thống thông tin và bản năng tham lam của con người đã tạo ra những hậu quả đó, để rồi những đứa trẻ không còn là trẻ thơ ngoan hiền mà Hạ Nguyên đã phần nào cảm nghiệm trong bài “Đi qua cánh rừng”:

Tôi bị xé ra từng mảnh và nhai ngấu nghiến bởi cái đói bản năng và sự tham lam tàn ác/ Và tôi đã không kịp trở thành đứa trẻ ngoan dẫu tôi tha thiết thế…

Vậy đó, cho dù mỗi cá thể đều muốn trở thành người tốt nhưng sống trong cộng đồng đầy rẫy sự tham lam và vô trách nhiệm thì ngay chính cả lòng tốt cũng bị nghi ngờ. Điều này đã được nói đến trong tác phẩm L’engrenage (Guồng máy) của Jean Paul Sartre.

Với “Lời của lá”, tác giả Lê Viết Xuân bằng câu chữ chân chất qua nhận định của cố nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng: “Người làm thơ vì cái chí, thơ thường ở trên núi cao. Người làm thơ bằng cái tâm, thơ thường ở giữa mọi người. Lê Viết Xuân làm thơ chính vì cái tâm của anh, một cái tâm lành không thể đôn hậu hơn”. Trong bài “Trở về” tác giả như muốn gửi tâm sự cùng người đọc về thói hư danh đang tràn ngập khắp nơi:

Chót vót đỉnh cao danh vọng
Nhìn xuống chân mình, có ngợp không
Núi cao kề bên vực thẳm
Bước lối nào cũng thấy chênh vênh...
Ánh hào quang của hư danh
Đưa ta đến bên bờ ảo vọng
Con cá vàng mất tăm cùng sóng
Lại trở về với túp lều tranh.

Tập thơ “Giấc mơ chữ” của tác giả Nguyễn Thiền Nghi, tập “Ta và bóng” của Triệu Nguyên Phong và tập “Truồi” của Ngô Công Tấn góp phần làm phong phú đóa hoa thơ xứ Huế trong năm nay.

Ở Huế, trong năm 2009 đã có hơn 10 tập thơ ra mắt bạn đọc, là một con số tuy không lớn nhưng với thơ đó là con số đáng nói. Các tập thơ xuất hiện với những hình thức và phong cách đa dạng: cổ điển, lãng mạn, hiện thực phê phán, siêu thực, tân hình thức,... Tác giả của các tập thơ có người là giáo viên, người bác sĩ, người công chức ngành văn hóa, người lao động tự do,... Trong vòm trời xứ Huế, mỗi người làm thơ có một góc nhìn riêng, tuy chat lượng các tập thơ có khác biệt nhưng chung quy mọi tác phẩm đều biểu hiện sự trăn trở của tác giả trước cuộc sống đầy rẫy biến động, bất thường,... điều đó đã nói lên được nguồn mạch thi ca của mảnh đất được mệnh danh là bài thơ đô thị. Ngoài ra, các tạp chí Sông Hương, Văn Hoá Huế, báo Thừa Thiên Huế, các trang mạng, blog,… đã góp phần giới thiệu những tác giả mới đến với người đọc để tiếp nối vào dòng chảy thi ca của quá khứ.

Như chúng ta đã biết, hầu hết mọi người đều lớn lên qua lời ru của mẹ, đó chính là âm hưởng để bước đầu cảm nhận thơ. Vậy mà, không ít người lại có cái nhìn lệch lạc về thơ. Xin được nhắc lại: Thơ không thể tách rời đời sống con người và chúng ta không nên góp phần tập thể hoá thơ và biến thơ thành món hàng thời mậu dịch quốc doanh. Đặc biệt, ở vùng đất được mệnh danh là xứ sở thi ca này, công việc tôn vinh thơ là một điều rất can thiết. Nhưng vấn đề là tôn vinh như thế nào để đừng xúc phạm Thơ.

Huế, 11/2009
LÊ HUỲNH LÂM
(250/12-09)




 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Có những thứ sẽ dần trôi tuột theo năm tháng, guồng quay của cuộc sống hiện đại có thể đã làm biến đổi phần nào giá trị của Tết. Nhưng nếu biết lắng lại, nghĩ khác đi thì Tết dường như vẫn luôn vẹn nguyên trong tâm thức mỗi người.

  • Nếp nhà lãng đãng khói hương như chiếc cầu nối với quá khứ. Hồn người tĩnh tại, thong dong hòa quyện miền tâm linh thăm thẳm. Nhưng không phải dịp Tết đến ta mới thấy nhẹ nhàng. Bất cứ khi nào đứng trước ban thờ tiên tổ, bao bộn bề, lo toan đều tự nhiên rũ bỏ, để gia tâm bảo vệ những gì tốt đẹp của tinh thần.

  • Vừa qua, một số cá thể thiên nga đã được thả vào hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội. Việc làm này đã gây nhiều ý kiến trái chiều trong dư luận. Dù sau đó, các cá thể thiên nga đã được di chuyển đến một địa điểm khác song từ sự việc này nhiều người tỏ ra băn khoăn bởi hồ Hoàn Kiếm vốn được coi là nơi linh thiêng, hơn nữa hồ Hoàn Kiếm và đền Ngọc Sơn còn là Di tích quốc gia đặc biệt.

  • Khi toàn cầu hóa, nhiều người mới ý thức rõ hơn tầm quan trọng của sáng tạo. Nhiều quốc gia coi sáng tạo là nguồn lực chính trong nền kinh tế tri thức. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của công nghệ số, bên cạnh động lực cũng tạo ra nhiều thách thức đối với khả năng sáng tạo của con người.

  • “Hiện thực” của đời sống hiện ra trước cái nhìn của chúng ta luôn luôn là một hỗn hợp, một nồi súp lẩu của “thực tế” và “tri nhận”, không tách bạch, và không dễ tách bạch được.

  • Nuôi dưỡng tâm hồn ham đọc sách từ bé cho con, sẽ giúp con dễ dàng vượt qua được giai đoạn khủng hoảng của tuổi mới lớn, giúp con mạnh mẽ đối mặt với những thay đổi của bản thân, và sóng gió của cuộc đời.

  • Để không bị lãng quên giữa các loại hình nghệ thuật giải trí hiện đại, sân khấu cải lương nói riêng, nghệ thuật truyền thống nói chung, đang tìm cách chuyển mình, dần tìm lại chỗ đứng. Trong quá trình tìm hướng đi mới ấy, các nghệ sĩ không hoàn toàn chạy theo thị hiếu một cách dễ dãi mà bỏ qua yếu tố nghệ thuật.

  • Một năm qua, sự xuất hiện của các sàn đấu giá nghệ thuật đã góp phần thúc đẩy hội họa phát triển, tạo ra thị trường lành mạnh thu hút nhà đầu tư cũng như giới mộ điệu. Nhưng vẫn còn nhiều vấn đề bỏ ngỏ.

  • Văn hóa là sản phẩm, đồng thời là điều kiện, động lực, phương thức tồn tại và phát triển của một đất nước. Văn hóa có sự phát triển tự thân nhưng cũng có cả sự tiếp nhận bên ngoài. Theo các chuyên gia, trong khi bảng giá trị của người Việt xuất hiện một số hiện tượng lệch lạc, cần nghiên cứu xây dựng hệ thống chuẩn mực xã hội, từ đó xác định khuôn khổ để trở lại chân giá trị.

  • Khi các hoạt động diễn xướng dân gian dần tách khỏi, đình làng dường như đánh mất một phần linh hồn, còn nghệ thuật truyền thống cũng thiếu khí vị. Theo NSƯT Đoàn Thanh Bình, những buổi diễn của Giáo phường Đình làng Việt một năm qua chính là hành trình để mỗi người được về lại ngày xưa, đắm mình trong đời sống văn hóa cộng đồng.

  • Thêm một lần mổ xẻ về thực trạng của lý luận phê bình sân khấu hiện nay, các nhà chuyên môn, tác giả đều cho rằng lý luận phê bình của sân khấu nước nhà rất thiếu, yếu và luôn bị các nhà hát… phớt lờ.

  • Nhà biên kịch Nguyễn Thị Hồng Ngát đã chia sẻ đầy trăn trở tại Hội thảo "Liên hoan phim Việt Nam trong sự nghiệp phát triển điện ảnh dân tộc" vừa qua ở Đà Nẵng.

  • Sáng 16/11, Hội Di sản văn hóa Thăng Long - Hà Nội đã tổ chức Hội thảo khoa học “Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu trên địa bàn Hà Nội - nhận diện, bảo tồn và phát triển” tại đình Hào Nam. Hội thảo đã thu hút sự quan tâm của đông đảo các nhà nghiên cứu, quản lý văn hóa - xã hội, các nghệ nhân dân, đồng đền, thủ nhang, thanh đồng…

  • Gần đây, một số trường ngoài công lập tăng học phí cao gây phản ứng của phụ huynh và bất bình dư luận. Đáng chú ý là theo Luật Giáo dục 2005, các cơ quan quản lý nhà nước không có thẩm quyền quản lý việc thu chi của các trường ngoài công lập. Các trường này hoạt động theo Luật Doanh nghiệp và ngành giáo dục chỉ giám sát về chỉ tiêu tuyển sinh, chương trình đào tạo.

  • Là di tích lịch sử văn hóa được xếp hạng Quốc gia từ năm 1991, nhưng những giá trị lịch sử, yếu tố nguyên gốc tại chùa Khúc Thủy, thôn Khúc Thủy (xã Cự Khê, huyện Thanh Oai, Hà Nội) đã bị xâm phạm nghiêm trọng.

  • Không phải ai sinh ra cũng đã có thẩm mỹ âm nhạc mà nó được hình thành gắn với không gian sống, điều kiện thụ hưởng. Theo nhạc sĩ Quốc Trung, hiện nay ở Việt Nam hầu hết các chương trình nghệ thuật chỉ trình diễn một vài thể loại nhạc, bó hẹp sự lựa chọn của khán giả. Nếu mọi người tự mở rộng, bỏ qua rào cản để thử nghiệm nhiều thể loại nhạc khác nhau, sẽ phát hiện ra nhiều thứ mới mẻ, thú vị.

  • Cuộc sống của họ ra sao, quan niệm về tình yêu, hạnh phúc, nỗi buồn, suy nghĩ về truyền thống, hiện tại và tương lai như thế nào? Để tìm ra câu trả lời, đạo diễn người Hà Lan Manouchehr Abrontan đã đi từ Nam ra Bắc, phỏng vấn hàng trăm phụ nữ ở mọi lứa tuổi, ngành nghề, vai trò khác nhau. Và “Việt Nam tim tôi” ra đời như tình ca về vẻ đẹp, sức mạnh của phụ nữ Việt.

  • “Học sinh như bó đuốc, nhiệm vụ của tôi là truyền lửa cho bó đuốc. Nhưng trước khi truyền lửa được thì giáo viên phải là người yêu thích, say mê tìm tòi, chắt lọc cái hay trong môn học, khơi gợi cho các em tự tìm tòi, tự phát hiện ra vấn đề”. Đó là chia sẻ của thầy giáo Lê Quang Nhân, Trường THPT chuyên Nguyễn Du, Đắk Lắk tại Lễ tuyên dương gương Người tốt việc tốt đổi mới sáng tạo trong dạy và học năm học 2016 - 2017 do Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD - ĐT) tổ chức sáng 18.10.

  • Trong bối cảnh cần khẳng định văn hóa doanh nghiệp Việt Nam, việc tìm ý tưởng sáng tạo từ “Truyện Kiều” được cho là con đường ngắn nhất. Như GS. Phong Lê, Chủ tịch Hội Kiều học Việt Nam nhận định: “Doanh nhân dùng chữ tâm ấy để tiến là phúc cho họ, cũng là phúc cho xã hội vậy”.

  • Trước các phương tiện nghe nhìn, sách đang trở nên yếu thế hơn. Người lớn cũng ngại đọc sách, còn trẻ em thì thích xem iPad và chơi game. Làm sao để tạo được thói quen đọc sách cho trẻ, qua đó, dần nuôi dưỡng tâm hồn các em bằng sách?