Thơ và đổi mới thơ

10:50 24/08/2009
TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!

Ngày nay những cỗ máy thông minh, những bộ óc điện tử đã làm việc thay cho con người ở nhiều lĩnh vực và con người cũng đang "mơ tưởng", thậm chí đang thí nghiệm để cho những "bộ óc điện tử thông minh" ấy làm thơ. Nhưng kết quả chỉ là những câu chữ ngơ ngẩn vô hồn, vô nghĩa mà thôi. Những con người "mơ tưởng" ấy họ đã không chịu nghe câu mà ai đó đã cảnh cáo họ từ lâu rằng: "Một bộ óc điện tử dù thông minh đến đâu đi chăng nữa cũng không thể biết được lúc nào nên khóc, lúc nào nên cười".

Ấy vậy mà đầu thế kỷ này nhà thơ Thạch Quỳ lại "phát hiện ra tính DUY NHẤT của thơ" ba bài thơ của ông (là những bài nào thì ông không nói) giống y hệt ba bài thơ của lớp các nhà thơ tiền chiến. Ông giải thích đại ý rằng:

Những bài thơ "kiểu ấy" khi làm hay được tới tuyệt đích các "cao nhân" sẽ gặp nhau, sẽ có cùng "một quả". Có nghĩa là như một phương trình toán học, nếu giải đúng sẽ có một nghiệm duy nhất mà thôi! Nếu đúng vậy người ta sẽ nạp các dữ kiện (kiểu các phương trình) cho máy vi tính và máy vi tính sẽ làm thơ thay các nhà thơ, nhà thơ Thạch Quy và ông Hà Văn Thuỳ người đồng ý với nhà thơ Thạch Quỳ về có tính duy nhất trong thơ sẽ không phải mất thì giờ làm thơ nữa, sẽ có khối thời gian để đi làm việc khác.

Tới đây xin được nói về phương Tây văn minh, nơi mà những người phương Đông hâm mộ, thậm chí có người còn thần thánh nó, tuyệt đối nó tới mức khi tranh luận với nhau họ thường dùng câu: "Phương Tây họ đã làm như vậy" để kết thúc cuộc tranh luận, để kéo phần phải về mình. Những người ấy họ quên một điều rằng:

Phương Tây cũng chỉ là một nửa của thế giới, nửa ấy có phần hơn song cũng có nhiều cái mà nửa phương Tây phải quay lại nhìn phương Đông, học phương Đông. Trong văn chương cũng vậy, không phải cứ cái gì của phương Tây đều là hay là đúng cả. Ví dụ họ (phương Tây) đã từng có cuộc tranh luận:

Cái lọ đựng nước quan trọng quyết định hay nước ở trong lọ là quan trọng là quyết định. Nghĩa là hình thức của thơ quan trọng, quyết định; hay nội dung của thơ là quan trọng, là quyết định. Những người tuyệt đối "cái lọ" nghĩa là tuyệt đối hoá phần hình thức của thơ, họ đã làm thành trường phái: "Chủ nghĩa hình thức ở Nga". Chủ nghĩa này đã có tiếng vang ở khắp châu Âu và ra ngoài cả châu Âu nữa.

Ngày nay, đa số mọi người đều hiểu rằng: Thơ là ý là tứ, là tình cảm của con người, được thể hiện bằng một hình thức thơ (thể loại thơ) nhất định. Nếu có tứ thơ ắt phải có hình thức biểu cảm thì người đọc mới hiểu, mới thấu được. Không có ý, có tứ thì cũng chẳng cần "hình thức" mà làm gì. Có nghĩa là hình thức và nội dung (lọ và nước) đều quan trọng, đều phải có, mới có thơ. Đề cập về những điều trên để đi tới việc tìm hiểu thơ và sự đổi mới thơ sẽ dễ dàng hơn.

Nếu đã gọi là sự đổi mới thơ có nghĩa là phải đổi mới cả về hình thức và nội dung thơ. Trước tiên xin nói phần nội dung:

Thơ là "cảm xúc" của con người trước thiên nhiên, vũ trụ, xã hội và con người được biểu cảm (thể hiện) bằng hình thức ngôn ngữ - chữ viết tối ưu nhất. Với "số chữ tối thiểu biểu hiện được số nghĩa tối đa". "Cảm xúc" phải hiểu theo nghĩa là những nhận biết (hiểu biết) và tình cảm của nhà thơ với những nhận biết ấy. Vậy đổi mới về nội dung có nghĩa là thơ phải phát hiện ra những cái mới, nhận biết ra những cái mới về thiên nhiên, vũ trụ, xã hội và con người rồi đặt trong góc độ “tình cảm" của nhà thơ. Sự phát hiện ấy cộng với tình cảm ấy là những điều mà trước đấy chưa ai biết, chưa ai nói. Tại sao đã nhấn mạnh đến sự NHẬN BIẾT (phát hiện) rồi mà lại còn phải đặt nó trong góc độ "tình cảm" của nhà thơ nữa? Là vì trong khoa học ai cũng nhận biết được 1 + 1 = 2 song trong thơ thì không hẳn là như vậy. Cùng là một bông hoa, mỗi người có góc độ quan sát khác nhau có mức độ yêu ghét khác nhau sẽ có những bài thơ khác nhau, thậm chí trái ngược nhau (điều này là sự bất lực của những bộ óc điện tử thông minh nhất). Thậm chí cùng một loài hoa nhưng ở những lứa tuổi khác nhau của một con người đã có những bài thơ (kết quả) khác nhau.

Xin được đề cập nốt phần đổi mới về hình thức thơ:

Có nhận biết (phát hiện về nội dung) mới rồi. Thậm chí cả mức độ tình cảm nữa cũng đã khác trước đây. Những điều ấy phải được thể hiện bằng một hình thức (thể loại thơ) nào đấy để cho người đọc hiểu được. Không những hiểu được mà còn phải xúc động nữa như các nhà thơ hằng mong muốn. Vậy nên sự tìm tòi hình thức mới, hay hơn, tối ưu hơn là ước mơ gần như "tự thân" này, đôi khi gần như "vô thức" này đã dẫn tới làm được nhưng bài thơ "tuyệt tác" mà đôi khi người ta thường nói là TRỜI CHO.

Những điều vừa nói tới có thể đi tới một kết luận rằng: Sự tìm tòi để đổi mới thơ (cả hình thức và nội dung) là sự vận động gần như "tự thân" của các nhà thơ ở mọi lứa tuổi chứ không phải là sự vận động chỉ riêng gì của các nhà thơ trẻ. Ở Việt Nam nhà thơ Tản Đà là người đầu tiên có công nhận thấy cần phải làm một cái gì đấy rồi mới đến lớp nhà thơ trẻ lúc bấy giờ như Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử, Lưu Trọng Lư và những nhà thơ khác trong phong trào thơ mới. Tìm tòi để có những bài thơ tuyệt tác, thơ hay hơn những bài thơ trước. Nhưng có người tìm thấy và có người cả đời tìm mà vẫn không thấy lại là chuyện khác.

Những bài thơ "đổi mới" đến đâu đi chăng nữa cũng vẫn phải bảo đảm được một điều tối thượng của thơ, đó là đọc lên phải hiểu được, cảm được, gây được sự xúc động mãnh liệt cho người đọc qua đó thức tỉnh được người đọc hướng cõi lòng họ về phía CHÂN, THIÊN, MỸ. Chứ không phải là viết những bài thơ hình thức kỳ quái, nội dung tối mù, tắc tị rồi gào lên đấy là những bài thơ "mới" thì cũng chẳng ai tin đâu.

Gần đây có nhiều nhà thơ được gọi là lớp những NHÀ THƠ TRẺ ở Việt Nam, Thái Lan, Pháp và nhiều nước trên thế giới, muốn đoạn tuyệt với quá khứ (thơ truyền thống) thậm chí phá hết những cái cũ đi để xây những cái mới. Xin thưa với các nhà thơ lớp trẻ, những vĩ nhân của tương lai ấy rằng: Không ai đập phá nổi những giá trị đích thực của thơ truyền thống đâu. Có vị Hoàng đế Trung Hoa đã đốt hết sách đi còn không ăn thua gì nữa là mấy lời gào thét lạc lõng của một số nhà thơ "quá khích" hiện nay. Ai sẽ làm nổi cái việc là "bắt được" tất cả những người yêu thơ ở Việt Nam không yêu thơ của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến. Trần Tế Xương, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính và Tố Hữu nữa? Không ai làm nổi đâu! Chỉ có điều tuy lòng người yêu thơ Việt Nam đã yêu thơ của các nhà thơ vừa kể ở trên rồi song vẫn còn rộng chỗ, rất rộng chỗ nữa để yêu những bài thơ "tuyệt tác" của lớp các nhà thơ trẻ hiện nay nếu họ viết được chứ các nhà thơ trẻ đừng lâm vào cảnh như một nhà thơ Thái Lan nói đại ý rằng: Các nhà thơ trẻ của nước Thái Lan chưa làm được việc gì ngoài việc PHÁ. Nói thế kể cũng phải, mà cũng lại chưa phải. Bởi vì dù ai có tài "phá" đến đâu đi chăng nữa, cũng không phá nổi những giá trị đích thực trong lĩnh vực tinh thần của loài người bởi vì những giá trị tinh thần ấy là giá trị PHI VẬT THỂ chứ đâu có phải là như cái bát ăn cơm hàng ngày mà giơ tay lên đập một cái là xong.

Xuân Giáp Thân
T.V.L
(184/06-04)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐOÀN ÁNH DƯƠNG

    Trong Điều kiện hậu hiện đại, Jean-Francois Lyotard cho rằng: “Bởi vì người ta không thể biết điều gì xảy ra cho tri thức, tức là sự phát triển và truyền bá nó hiện nay đang gặp phải những vấn đề gì, nếu không biết gì về xã hội trong đó nó diễn ra.

  • ĐANIEN GRANIN

    Năm ngoái, một tai họa xảy ra với tôi. Tôi đi trên đường phố, bị trượt chân và ngã xuống... Ngã thật thảm hại: mặt áp xuống, mũi toạc ra, tay bị tréo lên vai. Lúc đó khoảng bảy giờ chiều, ở trung tâm thành phố, trên đại lộ Kirov, cách ngôi nhà ở không xa.

  • PHẠM QUANG TRUNG

    Bàn về hiệu quả của lý luận trong quan hệ với sáng tác, cần phân tách xu hướng lý luận dành cho tìm hiểu sáng tác của nhà văn (hướng nhiều hơn tới người nghiên cứu) với xu hướng lý luận dành cho sáng tác của nhà văn (hướng nhiều hơn tới người sáng tạo).

  • HÀ VĂN LƯỠNG  

    Trong thể loại tự sự, người trần thuật giữ một vai trò quan trọng, góp phần làm nên giá trị nghệ thuật tự sự của tác phẩm văn học.

  • NGUYỄN THỊ TỊNH THY

    Đời sống văn học không thể thiếu phê bình, nghiên cứu. Nếu xem “tác phẩm văn học như là quá trình”(1) thì phê bình và nghiên cứu là một khâu quan trọng trong chuỗi quá trình đó.

  • PHAN TUẤN ANH

    1. Nguyên tắc thẩm mỹ facebook và lối đọc status - entry
    Những tác phẩm của Đặng Thân như Ma net mà đặc biệt là 3339 [những mảnh hồn trần] từ khi ra đời đến nay đã trở thành những “cú sốc văn hóa” mini trong đời sống văn học Việt Nam.

  • BÙI BÍCH HẠNH

    Cất tiếng như một định mệnh của quyền năng nghệ thuật giữa phố thị thơ miền Nam những năm 50 - 60 thế kỉ XX, người thơ Thanh Tâm Tuyền, bằng tuyên ngôn nghệ thuật khởi từ ca dao sang tự do, đã tham dự vào thi đàn vốn nhiều biến động với tư cách một hữu thể mưu cầu phục sinh.

  • NGUYỄN QUANG HUY

    Phạm Thái (1777 - 1813) là một khuôn mặt khá đặc biệt trong thơ văn Việt Nam giai đoạn cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX. Đặc biệt trong thời đại ông sinh ra và ứng xử với nó; đặc biệt trong cách thể hiện thế giới nghệ thuật nhiều cá tính, nhiều gương mặt; đặc biệt trong vũ trụ mộng trước cuộc đời; đặc biệt trong cách thế tồn tại tài hoa mệnh bạc của ông; đặc biệt hơn là thơ văn của ông chưa được lưu ý phân tích ở chiều sâu tâm lí, chiều sâu thẩm mĩ.

  • THÁI DOÃN HIỂU

    Thời kỳ còn sống lang thang Kazan, nhà văn trẻ tài năng M. Gorky luôn làm phiền cho trật tự của chính quyền, cảnh sát Nga Hoàng tống lao ông. Trong tù, ông vẫn viết truyện, tuồn ra ngoài in đều đều trên các mặt báo.

  • INRASARA 

    1.
    Ch. Fredriksson trả lời cuộc phỏng vấn, cho rằng: “Ý tưởng dường như có tính tiên quyết, xem người nghệ sĩ làm gì và làm như thế nào với tác phẩm của mình, để làm sao cho tác phẩm ấy có hiệu quả nhất khi đến với công chúng.

  • NGUYỄN BÀN 

    Hồi còn học trung học, khi đọc Truyện Kiều, chúng tôi đinh ninh rằng Thúy Kiều gặp Kim Trọng lúc tuổi “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê”, nghĩa là khoảng 15, 16 tuổi. Nay đọc cuốn Tìm hiểu Truyện Kiều của tác giả Lê Quế (Nxb. Nghệ An, 2004) thì thấy Thúy Kiều gặp Kim Trọng lúc 22 tuổi.

  • PHẠM PHÚ PHONG 

    Nguyễn Hữu Sơn là nhà nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam, là phó giáo sư, Tiến sĩ, Phó Viện trưởng Viện Văn học và Phó Tổng Biên tập Tạp chí Nghiên cứu Văn học.

  • LUÂN NGUYỄN

    Trần Đức Thảo, với người Việt, hiển nhiên là một trí tuệ hiếm có. Trong tín niệm của tôi, ông còn là một trí thức chân chính. Một trí thức dân tộc.

  • MAI VĂN HOAN

    Trong những tháng ngày ở Châu Thai chờ đợi Từ Hải, sau khi diễn tả nỗi nhớ của Kiều đối với quê nhà, cha mẹ, Nguyễn Du viết: Tiếc thay chút nghĩa cũ càng/ Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng.

  • NGUYỄN HỒNG TRÂN

    Vua Minh Mạng (tên hoàng tử là Nguyễn Phúc Đảm) lên làm vua năm Canh Thìn (1820). Ông là một vị vua có tri thức uyên thâm, biết nhìn xa thấy rộng.

  • VĂN NHÂN

    Trong bài thơ viết về dòng sông Hương, Nguyễn Trọng Tạo có bốn câu khá hay: Con sông đám cưới Huyền Trân/ Bỏ quên giải lụa phù vân trên nguồn/ Hèn chi thơm thảo nỗi buồn/ Niềm riêng nhuộm tím hoàng hôn đến giờ (Con sông huyền thoại).

  • THÁI KIM LAN  
    (Đôi điều về Con Đường Mẹ Đi)

    Trước tiên, khi thử nhìn lại con đường của Mẹ - Đạo Mẫu, tôi lại muốn đánh dấu chéo gạch bỏ những khái niệm “Đạo Mẫu”, Tiên Thánh Liễu Hạnh, Thánh Cô và một loạt những nhân vật được tôn sùng cho sức mạnh, thế lực hàng đầu của nữ giới Việt, thường được hóa thánh, sùng thượng một thời.

  • THÁI DOÃN HIỂU

    Thân sinh của Cao Bá Quát là ông đồ Cao Hữu Chiếu - một danh nho tuy không đỗ đạt gì. Ông hướng con cái vào đường khoa cử với rất nhiều kỳ vọng.

  • ANNIE FINCH  

    Chúng tôi khát khao cái đẹp thi ca, và chúng tôi không e dè né tránh những nguồn mạch nuôi dưỡng chúng tôi. Chúng tôi sẵn sàng với chủ nghĩa Toàn thể hình thức (omniformalism), cho một thi pháp phong phú và mở rộng, giải phóng khỏi những doanh trại của những cuộc chiến thi ca đã chết rấp.

  • Chuyên luận THƠ NHƯ LÀ MỸ HỌC CỦA CÁI KHÁC (Nxb. Hội Nhà văn - Song Thuy bookstore, 2012, 458tr) gồm ba phần: Phần một: THƠ NHƯ LÀ MỸ HỌC CỦA CÁI KHÁC, Phần hai: CHÂN TRẦN ĐẾN CÁI KHÁC, Phần ba: NHỮNG NẺO ĐƯỜNG CỦA CÁI KHÁC.