Thơ thiền Lý - Trần - nguồn tư duy minh triết

15:35 29/04/2009
HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.

Chấm dứt đêm trường ngàn năm Bắc thuộc, mở ra một thời kỳ độc lập tự chủ lâu dài, công ấy do Ngô Vương Quyền. Nhưng chỉ ít năm sau, lại cát cứ, xâu xé, tranh giành. Dẹp xong loạn 12 sứ quân, lên ngôi hoàng đế, đến lượt cha con Đinh Tiên Hoàng bị ám hại. Cái chết của cha con ông tới nay vẫn còn là một nghi án.
Được ngôi nước, Lê Hoàn trong lòng vẫn chưa hết lo sợ. Đem nỗi lo ấy hỏi một bậc thiền sư lỗi lạc. Hẳn Lê Hoàn chỉ mong Đỗ Pháp Thuận chỉ cho ông giải pháp đối phó với các phe đối lập, đối phó với các sách động người Mường ở Thanh Hoá, người Nùng ở Cao Bằng, Lạng Sơn thường nổi dậy cướp phá, chống lại quan quân, và cả sự đe dọa của nhà Tống.

Thay vì "Đáp quốc vương quốc tộ chi vấn", (tức là trả lời vào điều Lê Hoàn hỏi về tương lai của "ngôi nước"; ngôi nước ở đây chính là vị trí của nhà vua); thiền sư đọc luôn cho vua nghe một bài kệ, nhằm vào chủ đề vua hỏi.
            Quốc tộ như đằng lạc
            Nam thiên lý thái bình
            Vô tri cư điện các
            Xứ xứ tức đao binh
.
Nghĩa là:
            Ngôi nước như dây leo quấn quít
            Ở góc trời Nam (mở ra) cảnh thái bình
            (Dùng đường lối) vô vi nơi cung điện
            Thì khắp mọi nơi đều tắt hết đao binh.


Nhà thiền học khuyên vua, muốn giữ được ngôi nước thì phải đoàn kết (vừa là đoàn kết trong nội bộ triều đình, vừa là đoàn kết dân tộc), như loài dây leo xoắn xuýt vào nhau thì mới có sức mạnh.

Hàng ngàn dặm đất của cõi trời Nam này, muốn có cảnh thái bình thịnh trị thì đường lối hành xử của nhà vua thể hiện nơi triều chính, phải là "đường lối vô vi". Làm được vậy, không cần phải đánh dẹp, tự nhiên nước sẽ an lạc. Vô vi mà Đỗ Pháp Thuận nói ở đây không có nghĩa là không hành động; nhà thiền nói "vô vi", thì nên hiểu đó là "vô ngã".

Tóm lại, bậc quốc sĩ, nhà thiền học lỗi lạc Đỗ Pháp Thuận đã khuyên hoàng đế Lê Hoàn khi ông hỏi về "ngôi nước" gồm các vấn đề mang tính chiến lược hơn là các biện pháp ứng phó mang tính chiến thuật.
1) Đoàn kết nội bộ, đoàn kết dân tộc xung quanh nhà vua.
2) Chính sách của nhà vua được thể hiện qua bộ máy cai trị, phải bộc lộ được sự trong sạch của triều đình, thì đó sẽ là nguồn gốc của thái bình, an lạc.

Có lẽ thiền sư Đỗ Pháp Thuận, là một trong những nhà Phật học đầu tiên ở nước ta, tạo tiền đề cho đạo gắn với đời, tham gia tích cực vào mọi mặt trong đời sống xã hội, cả về văn hoá và chính trị theo hướng tiến bộ. Và vì thế, gần nửa thiên niên kỷ bắt đầu từ nhà tiền Lê đến kết thúc triều đại nhà Trần, Phật giáo nước ta trở thành một nhân tố cấu thành trong việc xây dựng đất nước giầu, thịnh và vững mạnh.
Tinh thần đó được thể hiện trong hàng loạt thơ thiền kéo dài suốt từ Lê - Lý sang Trần.
Ta biết các thiền sư cuối Lê đầu Lý, đã có tác động tích cực thế nào vào việc làm nảy sinh một triều đại mới. Đó là vai trò của các thiền sư Đa Bảo, Khánh Văn, đặc biệt là sư Vạn Hạnh.

Đó cũng chính là sự vạn bất đắc dĩ các thiền sư buộc phải tham gia vào việc diệt trừ cái ác, tựa như sau này, Tuệ Trung thượng sĩ Trần Quốc Tung hai lần thân làm tướng trực tiếp cầm quân đánh giặc Nguyên - Mông hồi cuối thế kỷ 13.
Khi thế nước đã bình ổn, các vị thiền sư lại chuyên tâm tu đạo.
Vạn Hạnh, cha đẻ của vương triều Lý, khi Lý Công Uẩn đã điều khiển triều chính vững vàng rồi, dường như ông không quan tâm đến các vấn đề chính trị nữa.
Các nhà trí thức Phật giáo cách ta gần 10 thế kỷ, có nhân sinh quan và vũ trụ quan dường như rất gần gũi với chúng ta ngày nay.
Thiền sư Vạn Hạnh khi sắp viên tịch, các đệ tử hỏi về Đạo, ông nói lời "kệ".
                        THỊ ĐỆ TỬ
            Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
            Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô
            Nhâm vận thịnh suy vô bổ uý
            Thịnh suy như lộ thảo đầu phô
                       
BẢO CÁC HỌC TRÒ
            Thân như bóng chớp, có rồi không
            Cây cối xuân tươi, thu não nùng
            Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi
            Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông
                                   
Ngô Tất Tố dịch

Vạn Hạnh chỉ cho đệ tử thấu hiểu quan niệm của nhà Phật là không chấp hữu, chẳng chấp vô. Ngay cái thân ta tưởng như là có, bỗng chốc đã là không, từ có đến không chỉ như một ánh chớp. Cả sự vận hành của thế giới sắc tướng kia, thịnh suy dời đổi có khác chi giọt sương trên đầu ngọn cỏ. Do vậy, việc sống chết, thịnh suy là lẽ thường hằng.
Có một điều thú vị là trong các đời Lý - Trần, rất nhiều các bậc vua anh minh kiêm triết gia, kiêm thiền sư. Trường hợp Lý Phật Mã (Lý Thái Tông 1000 - 1054) không là một biệt lệ. Quan niệm của ông về thời gian và không gian, là một thứ không gian và thời gian rất gần gụi với thuyết tương đối ngày nay. Trong bài kệ truy tán vị tổ của dòng thiền Tì-ni-đa-lưu-chi, đã mất hơn 400 năm trước khi ông được sinh ra. Vậy mà ông viết cứ như một nhà vật lý học thời nay;
            ...
            Hạo hạo Lăng Già nguyệt
            Phân phân Bát Nhã liên
            Hà thì lân diện kiến
            Tương dữ thoại trùng huyền.

Dịch nghĩa:
            (Trăng Lăng Già vằng vặc
            Sen Bát Nhã thơm truyền
            Biết bao giờ gặp mặt
            Cùng nhau nói đạo huyền)
Dịch thơ:
            Lăng Già ngời bóng nguyệt
            Bát Nhã nức mùi sen
            Họp mặt chừng bao tá
            Cùng nhau bàn lẽ huyền.
                                   
Ngô Tất Tố dịch

Triết lý đời Lý qua thơ thiền, khẳng định cái khả biến và cái bất biến trong thế giới vi mô và vĩ mô.
Cái khả biến là thế giới hình tướng, sắc tướng; cái bất biến là đạo, là qui luật của tự nhiên.
Trong bài "Thị đệ tử Bản Tịch", tức là bảo cho học trò là Bản Tịch, thiền sư Đào Thuân Châu viết:
            Chân tính thường vô tính
            Hà tằng hữu sinh diệt
            Thân thị sinh diệt pháp
            Pháp tính vị tằng diệt
Dịch
            Chân tính luôn luôn không có tính
            Nó chưa từng có sinh diệt
            Thân người là hiện tượng sinh diệt
            Những pháp tính thì chưa từng sinh diệt

Do nhận thức về qui luật sinh tử cũng như các qui luật khác của tự nhiên có tính bản thể luận như vậy, nên con người thời đó có lối sống rất hồn nhiên, và hoà đồng. Thái độ sống rất chủ động và tích cực. Thường là làm chủ bản thân, làm chủ xã hội và hoà hợp với thiên nhiên tạo vật.
Bài "Cáo tật thị chúng" của thiền sư Mãn Giác (1052 - 1096) ra đời gần một ngàn năm, mà sao ta có cảm giác như nó được viết vào thời nay.

Bốn câu đầu:
            Xuân khứ bách hoa lạc
            Xuân lai bách hoa khai
            Sự thực nhãn tiền quá
            Lão tòng đầu thượng lai
Nhằm nói về bốn núi, tức là bốn nỗi khổ của con người: sinh - lão - bệnh - tử thì ai cũng biết rồi. Bởi trong cuộc đời ai mà không trải qua bốn cảnh bất hạnh đó. Về bốn câu này thì nhiều thi nhân có thể viết được.
Nhưng hai câu cuối;
            Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
            Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
nhất định phải là một nhà thiền học uyên bác mới lập nổi tứ này, để bài thơ đạt tới giá trị vĩnh hằng, song nếu không phải là tài năng trác việt của một bậc thi thánh, thì không thể gói nổi cái tứ lớn lao kia trong 14 chữ, mà mỗi chữ đều như một viên kim cương lấp lánh.


Dịch thơ toàn bài:
            Xuân ruổi, trăm hoa rụng
            Xuân tới, trăm hoa cười
            Trước mắt, việc đi mãi
            Trên đầu, già đến rồi
            Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
            Đêm qua, sân trước một cành mai.
                                               
Ngô Tất Tố

Lại nữa, Trần Nhân Tông (1254 - 1308), khó ai mà tưởng tượng được một vị vua gần dân đến thế, một con người sống giữa cõi đời, sống giữa thiên nhiên và đã thực sự hoà vào với đời, hoà vào với thiên nhiên.
Đọc bài: "Thiên Trường vãn vọng", ta có cảm giác đích thị tác giả là một nông dân; hay chí ít là vị vua này sống không cách biệt với dân.
            Thôn hậu, thôn tiền, đạm tự yên
            Bán vô, bán hữu, tịch dương biên
            Mục đồng địch lý ngưu qui tận
            Bạch lộ song song phi hạ điền
Dịch thơ
            Xóm trước, thôn sau nhạt khói lồng
            Bóng chiều nửa có nửa hư không
            Đi trong tiếng sáo trâu về hết
            Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.
                                   
Ngô Tất Tố - Trần Lê Văn

Đọc tới bài "Nguyệt" tức "Trăng", ta cảm như tác giả là một hàn sĩ, hoặc một anh khoá nghèo nơi thôn dã đọc sách và thiếp ngủ đi lúc nào không biết.
Và cũng chẳng có ai săn sóc, hầu hạ:
            Bên song đèn rạng sách đầy giường,
            Khí lạnh, đêm thu, đượm giọt sương
            Thức giấc tiếng chày đã lặng ngắt
            Trên chùm hoa mộc nguyệt lồng gương.
Con người thi sĩ ấy, nhà vua anh hùng ấy thoắt cái bỏ ngôi vua như người ta quẳng đi một đôi dép rách, để đi tu thiền.


(Phật hoàng Trần Nhân Tông)

Việc tu đạo của Trần Nhân Tông không hề có mảy may thoát ly thế gian, cầu tìm sự yên nhàn cho thân tâm. Nhà vua đi tìm chân lý; khác với các triết gia cùng thời ở phương Tây, họ tìm chân lý qua thế giới hiện tượng, tức là tìm trong cái động; trái lại Trần Nhân Tông tìm chân lý trong cái tĩnh, tìm chính trong bản thân mình, trong lòng mình.
Nhà vua khuyên mọi người hãy trong lặng soi tìm vào chính mình, lôi cho bằng được ông Phật (tức chân lý) ở trong tâm mình ra, chớ có vọng động mà cầu tìm tha lực. Đó chính là giáo lý hướng nội.

Trong "Cư trần lạc đạo" đệ ngũ hội, ngài viết:
            Bụt ở trong nhà
            Chẳng phải tìm xa
            Nhân khuy bản (quên bản gốc)
            Nên ta tìm Bụt
            Chỉn mới hay
            Chính Bụt là ta
Chính ông là một thiền sư, lại tuyên cáo không cần thiền.
            "Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
            Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền
"
            (Trong nhà sẵn ngọc thôi tìm kiếm
            Lặng lòng đối cảnh hỏi chi thiền)

Và việc tu đạo chẳng có gì là khó, cứ sống giữa đời một cách vui vẻ, tuỳ cái duyên nó đến, tu được thì tu. Và việc tu này cũng tự nhiên như người đói thì ăn, mệt thì ngủ, có chi phải nhiêu khê, phiền toái.
            "Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên
            Cơ tắc thực hề, khốn tắc miên
"

Và Tuệ Trung thượng sĩ, bậc thầy của Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân tông cũng chỉ cho người học đạo một quan điểm tu tập rất thoáng đãng:
            THỊ HỌC
            (Gợi bảo người học đạo)
            Học giả phân phân bất nại hà
            Đồ tương linh đích khổ tương ma
            Báo quân hữu ỷ tha môn hộ
            Nhất điểm xuân quang xứ xứ hoa

Dịch thơ:
            Hoa đạo mênh mang ai có hay
            Gạch đem mài gạch cực lắm thay
            Cửa người anh hãy thôi nương dựa
            Một áng xuân về hoa đó đây
                                   
Đỗ Văn Hỷ

Rõ ràng là thơ thiền cũng như thiền học các đời Lý-Trần là một minh chứng cho thấy con người thời đó sống tự tin, tự cường, sống hoà hợp với thiên nhiên, vua sống gần dân, vua với dân cùng chung sức chung lòng, chung lo việc xây dựng đất nước và bảo vệ đất nước.

Vì sao Đại Việt thời đó có được các thành tựu ấy? Trước hết phải tự hào mà nói rằng, Đại Việt vào thời điểm lịch sử đó, xuất hiện nhiều bậc trí thức Phật giáo vừa là các nhà thiền học lỗi lạc, vừa là các bậc vua chúa anh minh. Những vị vua kiêm triết gia ấy cùng với các bậc trí tuệ đã xây dựng được một nền Việt Phật, một dòng thiền hướng nội, đã khai phóng được sức mạnh tiềm ẩn trong mỗi con người, kết thành nội lực vô song của toàn dân tộc.

Chính vì tính hướng nội của thiền học được coi như một hệ tư tưởng chính thống của thời đại, nên các đời Lý-Trần đã triệt để khai thác được sức mạnh nội lực, tuyệt nhiên không dựa vào tha lực, vì vậy sức tự cường của dân tộc rất lớn.Và cũng vì vậy mà các đế quốc xâm lược hung hãn như Tống, như Nguyên-Mông đều lần lượt bị đánh bại.

Ở đây phải thừa nhận Phật giáo đã dựa vào sức mạnh của dân tộc để phát triển Đạo và xây dựng đất nước, dân tộc cũng dựa vào trí tuệ sáng suốt của học thuyết "tam giáo đồng nguyên" để vượt thoát. Như vậy, tất cả đều phục vụ cho một mục tiêu tối thượng là sự trường tồn của dân tộc. Nếu không, thì không thể lý giải được một xã hội ốm yếu, rệu rã, chia ly, nghèo đói vật vã thời Lê Long Đĩnh (hôn quân ngoạ triều), bỗng vụt lên thành một nhà nước cường thịnh thời Lý-Trần.

Ấy là nói về đại thể, chứ thực có thời gian đi kỹ vào thơ thiền Lý - Trần còn biết bao điều thú vị. Chẳng hạn đặc trưng của thơ thiền đời Lý là kết hợp rất nhuần nhuyễn "chất Phật" với "chất Lão-Trang". Vì thế giọng thơ nghe siêu thoát. Con người như sảng khoái hơn, tự tin hơn. Con người với thiên nhiên như là một chỉnh thể khó phân ly.

Song thơ thiền đời Trần, vẫn có điểm chung với thơ thiền đời Lý là lấy Phật làm trung tâm, tuy nhiên nó xa dần Lão Trang mà gần cận với Nho giáo hơn. Chính sự kết thân này ngày càng làm cho chất lung linh trong thơ giảm thiểu, chất thế tục ngày một gia tăng. Cũng bởi ảnh hưởng tính thực dụng của Nho chen vào. Sang cuối Trần, hậu Lê, và Nguyễn Nho thịnh hẳn, khiến Phật suy, và xã hội đi dần vào con đường phụ thuộc bởi các học thuyết chấp ngã của Nho gia.

Và một khi đã dựa vào tha lực, thì khó mà đưa đất nước vào quĩ đạo của sự phát triển. Mặc dù thi thoảng vẫn có những ông vua có tài như Lê Thánh Tông, Minh Mạng, song vẫn không cứu vãn được cả một thời đại đã đi vào "khu bản".

H.Q.H
(168/02-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐẶNG VIỆT BÍCHTrong mười hai con giáp, từ lâu, người ta đã nhận thấy chỉ có mười một con là động vật có thật, được nuôi trong gia đình, là gia cầm (như gà - dậu), là gia súc (trâu - ngưu) hoặc động vật hoang dã (như hổ - dần)... Còn con Rồng - Thìn thì hoàn toàn là động vật thần thoại.

  • Vừa qua tại Hà Nội đã diễn ra Hội nghị Dịch thuật Giới thiệu Văn học Việt Nam ra thế giới, quy tụ trên một trăm dịch giả trong và ngoài nước đến từ hàng chục quốc gia và vùng lãnh thổ khác nhau như Pháp, Mỹ, Đông Âu, Trung Quốc... Đây được xem là bước khởi đầu cho việc quảng bá tốt nhất văn học Việt ra thế giới.

  • NGUYỄN THANH HÙNGTiếp nhận văn học thực sự diễn ra dưới ảnh hưởng của đặc điểm cuộc sống trong cộng đồng lý giải tác phẩm. Có được ý nghĩa phong phú của văn bản nghệ thuật là nhờ sự tiếp nhận của các thành viên độc giả tạo ra. Chính những ý nghĩa ấy chứ không phải bản thân văn bản, thậm chí không phải cả dụng ý của tác giả là điểm khởi đầu cho "chiều dài thương lượng" về giá trị của tác phẩm văn học trong lịch sử.

  • HỮU ĐẠTKhi giảng dạy thơ ca của bất cứ nhà thơ nào, ngoài những bài được đưa vào sách giáo khoa việc giới thiệu thêm những bài thơ khác trong sự nghiệp sáng tác của tác giả là rất cần thiết. Tuy nhiên, khi giới thiệu cần có những cách phân tích và đánh giá đúng đắn mới phát huy được việc mở rộng kiến thức cho học trò. Nếu không sẽ gây ra những tác dụng ngược lại.

  • HOÀNG TẤT THẮNG         (Vì sự trong sáng tiếng Việt)

  • ĐẶNG MẬU TỰU- PHAN THANH BÌNH5 năm hoạt động mỹ thuật sôi nổi, đầy trăn trở và suy nghĩ đã trôi qua, Phân- Chi hội mỹ thuật Thừa Thiên Huế đã có nhiều cơ hội để nhìn lại đánh giá những gì mà mình đã làm được.

  • VŨ ĐỨC PHÚCChữ Hán trong hàng chục thế kỷ là chữ dùng chính thức của quốc gia Việt . Trong các thế kỷ ấy văn thơ chữ Hán khi thì là văn thơ duy nhất, khi thì là bộ phận chủ yếu hoặc quan trọng, không thể thiếu, của lịch sử văn học Việt bên cạnh văn thơ chữ Nôm.

  • PHẠM QUANG TRUNGHội Nhà văn Việt Nam, bên cạnh tính chính trị- xã hội, trước hết là một tổ chức nghề nghiệp. Muốn có sức mạnh, cơ cấu và hoạt động của Hội phải tương thích với đặc thù nghề viết văn.

  • NGUYỄN VĂN HOASuốt những năm phổ thông, do phải kiểm tra hoặc phải thi cử nên bắt buộc tôi phải thuộc các bài thơ có vần trong sách giáo khoa. Trên ba mươi năm rồi tôi vẫn thuộc những bài thơ đó. Mặt khác thời tôi học phổ thông ở vùng Kinh Bắc hiệu sách có rất ít sách thơ bán và lúc đó cũng không có tiền để mua. Nguồn duy nhất là sách giáo khoa.

  • VÕ TẤN CƯỜNGLịch sử văn minh của nhân loại đã trải qua những phát kiến, khám phá vĩ đại về khoa học kỹ thuật và vũ trụ nhưng sự bí ẩn của tâm linh con người thì vẫn luôn là thách thức chưa thể giải mã.

  • Mối quan hệ của Chủ nghĩa Siêu thực với hội họa vẫn là một câu hỏi chưa được sáng tỏ, vấn đề khó khăn này đã được các nhà lịch sử mỹ thuật hé mở hơn khi chú ý ở khía cạnh hình tượng xảy ra trong các giấc mơ và coi đó là một hành vi đặc biệt của “phong cách” nghệ thuật hiện đại.

  • Cách đây vài hôm, tôi nói chuyện với một vị nữ tiến sỹ ở Viện nghiên cứu văn hoá nghệ thuật. Bà là một trưởng phòng nghiên cứu có thâm niên, rất thông thái về văn hoá. Trong lúc vui chuyện tôi nói rằng mình có ý định tìm hiểu về mối quan hệ giữa văn hoá và ngôn ngữ. Bà bảo không thể đặt vấn đề như vậy, vì ngôn ngữ là một thành tố của văn hoá.

  • TRẦN HUYỀN SÂMVăn học là dòng sông chở đầy dư vị của cuộc đời, mà văn hóa là một trong những yếu tố kết tinh nên hương sắc ấy.

  • LÊ ĐẠTTình không lời xông đất để sang xuânTrước hết xin giải quyết cho xong một vấn đề đã được giải quyết từ rất lâu tại các nhà nước văn hóa phát triển.

  • HỮU ĐẠTMột trong những đặc điểm dễ nhận thấy về phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều chính là tính sáng tạo qua việc dùng từ. Có thể bàn đến nhiều trường hợp khác nhau, trong đó chữ Xuân là một ví dụ khá điển hình.

  • NGUYỄN THANH HÙNGLý do để có thể còn viết được những cái như là hiển nhiên rồi, thật ra có nhiều. Nói về văn thơ tức là nói về cuộc đời, về sự sống dù chỉ nói được một phần rất nhỏ của cả một vũ trụ đang trong cơn say biến đổi, mà đã thấy choáng ngợp lắm rồi.

  • THANH THẢOThơ như những ngọn đèn thuyền câu mực trong biển đêm. Lấp lóe, âm thầm, kiên nhẫn, vô định.

  • ĐÔNG LA.     (Tiểu thuyết của Nguyễn Việt Hà, Nxb Văn Học")

  • NguyỄn Thu TrangNghệ thuật ẩm thực của người Việt đã góp phần tạo nên bản sắc văn hóa Việt . Bàn về ẩm thực và những gì liên quan thì quá rộng, thế nên ở đây chúng tôi chỉ mạn phép bàn đến một khía cạnh nhỏ của nó mà thôi.

  • NGUYỄN NGỌC MINHNằm trong nội dung một đề tài nghiên cứu về khoa học xã hội và nhân văn của Tỉnh về: khảo sát thực trạng, đề xuất chủ trương giải pháp, xây dựng đội ngũ công nhân- nông dân- trí thức, tăng cường khối liên minh công- nông- trí thức ở TT- Huế.