Thờ sự thật

10:05 05/03/2014

Sự thật là một điều không dễ dàng tìm cho ra, cho nên con người phải phát triển khoa học, phát triển công nghệ trên mọi lĩnh vực.

Thờ sự thật, lại là một vấn đề hoàn toàn khác. Đó là vấn đề của một nền văn hóa: nền văn hóa ấy có coi việc phải cố gắng đi đến sự thật là mục đích tối thượng của tinh thần? Hay là không?

"Vừa lòng nhau"

“Túi khôn” của văn hóa dân gian Việt hướng dẫn:


"Lời nói không mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau."


Túi khôn này bày ra cả một thực tế đời sống ngồn ngộn của mỗi người Việt. Dẫu rằng vẫn có mặt bên kia của túi khôn dân gian, "thuốc đắng dã tật", nhưng túi khôn ấy cũng đã kèm theo ngay lời phân bua"sự thật mất lòng".

Tại sao con người thích thờ "vừa lòng nhau"?

Vì, đó là thờ tình cảm, điều dễ nhất.

Thờ tình cảm không buộc người ta phải suy nghĩ nhiều.

Thờ tình cảm không buộc người ta phải khó khăn đi tìm sự thật.

Thờ tình cảm không buộc người ta phải khó khăn để nghe cho tới lúc hiểu ra được sự thật.

Thờ tình cảm không buộc người ta phải chịu đựng việc nghe cho thủng ra những sự thật bất lợi cho chính mình.

Thờ tình cảm cho người ta sự thỏa mãn tức thì.

Thờ tình cảm không buộc người ta phải xây dựng cho được tư duy duy lý.

Thờ tình cảm không buộc người ta phải cố gắng tổng hợp được các sự thật đã tìm được thành ra một bức tranh khả dĩ hợp lý.

Thờ tình cảm dễ dàng tạo hiệu ứng đám đông.

Thờ tình cảm dễ dàng khai thác các tập tục cổ truyền sẵn có rồi.

Thờ tình cảm nhanh chóng chiếm đoạt được quyền lực, quyền lực của tình cảm, rồi của yêu ma, của thần thánh, và rốt cục, quyền lực trần tụccủa cộng đồng.


Cơn xoáy lốc quẩn của "vừa lòng nhau"

Khi các cố gắng của một cộng đồng chỉ xoay quanh việc tranh đoạt sự "vừa lòng nhau", nó tạo lên một vòng xoáy lốc “văn hóa” mà cộng đồng ấy bị chìm vào trong, không làm sao tự thoát ra được: mỗi thành viên đều vừa là nạn nhân, vừa là tác giả. "Vừa lòng nhau" trở thành tâm điểm của cơn xoáy lốc thường hằng của “văn hóa”, cơn xoáy lốc này chứa đựng ít ra những thành tố đặc trưng như sau.

- Thờ quyền lực trực tiếp, quyền lực của người trị người trực tiếp. Tinh thần cộng đồng không đi tìm một điểm tựa nào khác ngoài cái hiện trạng "vừa lòng nhau" kết đọng mong manh ở mỗi thời điểm nhất định.

- Đạo "đối nhân xử thế". Thoạt nghe, đạo này mang vẻ rất hấp dẫn, mang tính “nghệ thuật”, “nhân văn”. Nhưng thực chất nó chỉ là thứ "tương quan lực lượng", “ai thắng ai” giữa các đối tác vào mỗi thời điểm nhất định. Hành xử xã hội trở nên một thứ nguyên tắc của vô nguyên tắc, mở đường cho bạo lực muôn dạng, trải từ dạng "tinh tế" kín đáo, cho tới dạng "thô bạo" thách đố. Dẫu như có luật lệ chăng nữa, luật lệ ấy cũng sẽ chỉ có được tính trang trí, nằm gọn trong tay của kẻ đang mạnh hơn, kẻ đang tạm có được nhiều "vừa lòng nhau" hơn, cái cũng đã từng được gọi là “pháp trị” (trị bằng luật hình) từ thời Trung Hoa cổ đại, cái đã được nhận dạng bằng thuật ngữ “rule by law”. Quyền lực của “pháp trị” là cái roi nằm trong tay của người đang thắng thế, đang thống trị. Điều này khác hoàn toàn với tư tưởng “pháp quyền” nơi mà các quyền lực cá nhân và các quyền lực công cộng được dần dà khách thể hóa ra bên ngoài, được thượng tôn, và mọi người của cộng đồng đều vừa có được các quyền phổ quát được công nhận, vừa phải khép mình bình đẳng bên dưới hệ thống luật pháp đã được đồng thuận ấy (rule of law).

- “Tự do cá nhân” dưới dạng thức tích cực, dạng khẳng định không thể tồn tại được, vì không có điểm tựa. “Tự do cá nhân” chỉ còn là dạng thức tiêu cực, tự phủ định, được vẽ lên như cắt tóc đi tu, trốn vào núirừng ở ẩn, treo ấn từ quan thả thuyền mất tích, được tô lên thành những đạo Lão, đạo Trang.

- “Cộng đồng dân chủ” của các cá nhân tự do vì thế cũng không thể hình thành.

- "Đạo vòng" sẽ trở thành nghệ thuật làm biến dạng vòng vèo mọi quy cách, để rốt cục thực thi sức mạnh của kẻ mạnh hơn.

Nan đề của cơn xoáy lốc quẩn này là không thể có được các tiến hóa căn bản của đời sống, nó là một con rắn cắn đuôi bất chấp thời gian.

Nếu các thành viên của một cộng đồng một hôm quyết định với nhau, rằng "vừa lòng nhau" tuy có những cái hay thật, tình cảm thật, được việc tức thì thật, thỉnh thoảng có lợi thật… nhưng thôi, không thể sống luẩn quẩn mãi trong cơn xoáylốc kéo dài hàng ngàn năm ấy nữa… thì họ phải thảo luận… thật… với nhau. Tôi tin rằng chỉ có một lối ra, dứt khoát, duy nhất, là chuyển sang “đạo thờ sự thật”.

Đường “thờ sự thật"

Sự thật khó khăn, nhưng “thờ sự thật” sẽ cho phép con người ngày càng vứt bỏ đi được những của nả gây nhiễu loạn đời sống, dựng dần lên được những rường cột căn bản, để ngày càng ổn định đời sống, và đi lên vững chãi. Vì vậy công việc đầu tiên của “thờ sự thật” là con người không lao vào môn cố tình bịa đặt, mặc dù biết rằng mình có thể nhầm lẫn trong nhận thức.

Thờ sự thật hướng con người đến sự chân thật. Giải tỏa các tư liệu lịch sử chẳng hạn, phải trở thành công việc tự nhiên, và bức thiết của cộng đồng. Phải dựng đạo luật, sau mỗi khoảng thời gian, ví dụ 40 năm hay 50 năm, tất cả các tư liệu phải được công bố tự do, được nghiên cứu tự do. Lịch sử không thể nửa kín nửa hở nửa thần thoại mãi mãi đối với một cộng đồng thờ sự thật.

Con người phải được giải phóng khỏi sự sợ hãi tập tục, khỏi “đạo vừa lòng nhau”, mà vẫn giữ được sự nhã nhặn. Xã hội đang vận hành như thế nào, phải được tự do nghiên cứu, công bố, thảo luận. Các khảo sát xã hội học tường tận phải được thúc đẩy, được trân trọng. Chỉ từ đó mới dựng lại được bộ mặt ngày càng thật của xã hội. Có sự thật ấy, mới mong đến sự sắp xếp, chỉnh đốn, rồi cải cách.


Con người phải thay đổi được thái độ đối với hiện thực qua tinh thần “thờ sự thật”. Nghĩa là “sự thật” không phải là một thứ vũ khí để tranh nhau thắng thua, để ra đòn trừng phạt nhau. Con người phải học tập để giữ được một thái độ bình thản, từ tốn, có khoảng cách đối với “hiện thực”, với “sự thật” được nhận thấy, để ngày càng tiến đến gần hơn và toàn diện hơn về phía sự thật đang vận động, và từ đó, từ tốn xử lý, cải cách đời sống của mình qua các qui trình trật tự, an nhiên.

Những điều thuộc về văn hóa mà chúng ta nói đến ở đây trước hết phải bắt đầu ngay từ những tế bào đơn giản nhất của xã hội. Từ việc đồng tiền của một gia đình nằm rõ ra từng khoản, khoản để đi chợ, khoản tiền điện nước, khoản để càfé bia bọt, không có nạn “ăn gian” khoản này sang khoản kia ngay từ trong nhà. Từ việc tất cả các bậc cha mẹ có thể và cần phải chống lại nạn học hành thi cử khuất tất đè nén lên trẻ em suốt tuổi thơ từ bao nhiêu năm nay. Từ việc đi ra đường phải chờ đèn xanh đèn đỏ ở ngã tư đường, vi phạm sẽ bị chụp ảnh gửi hóa đơn về nhà,thể theo biển số đăng kí. Từ các đòi hỏi phải tạo áp lực dựng lên một hệ thống y tế dù còn nghèo nhưng sạch sẽ, tử tế, chưa có nhà gạch thì dựng nhà lá lên… Các áp lực ấy chỉ giản đơn từ cái tinh thần “thờ sự thật”, tôi quyết không đi vòng quanh cái cối xay mãi để phí hoại cả cuộc đời mình. Các áp lực ấy sẽ làm xã hội tổng thể phải tìm ra giải pháp.

Còn bao nhiêu điều phải nói, và đáng nói tiếp… Nhưng, chúng ta đã cảm nhận quá rõ điều đau đớn và bất lực vô cùng dài lâu khi mà sự thật chưa phải là cái căn bản được một nền văn hóa của chúng ta hiện nay thờ phượng.

Theo Hoàng Hồng Minh - tiasang

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Trí thức là những người mà lao động hàng ngày của họ là lao động trí óc, sản phẩm của họ làm ra là những sản phẩm trí tuệ, nhưng sản phẩm ấy phải là những sản phẩm có ích cho xã hội...

  • Ở Huế ngày xưa, người học trò nào cũng có một “Tủ sách Học trò” riêng tư cho mình và nhà nào cũng có một “Tủ sách Gia đình” để dùng chung trong nhà. Người Huế rất trọng học vấn, rất trọng sự hiểu biết nên rất trọng sách. Vì vậy, họ cất sách rất kỹ. Họ thường cất sách để làm kỷ niệm riêng tư cho mình về sau đã đành mà họ còn cất sách để dành cho đám đàn em con cháu của họ trong gia đình, dùng mà học sau nầy. Người Huế nào cũng đều cùng một suy nghĩ là ở đời, muốn vươn lên cao thì phải học và đã học thì phải cần sách. Đối với họ, sách quý là vậy. Lễ giáo Khổng Mạnh xưa cũng đã đòi hỏi mỗi người Huế thấy tờ giấy nào rớt dưới đất mà có viết chữ Hán “bên trên” là phải cúi xuống lượm lên để cất giữ “kẻo tội Trời”! Người xưa cũng như họ, không muốn thấy chữ nghĩa của Thánh hiền bị chà đạp dưới chân.

  • 1. Trung tâm văn hóa tôi muốn đề cập ở đây là thành phố Huế của tỉnh Thừa Thiên Huế. Đã là một Trung tâm văn hóa thì bao giờ cũng quy tụ nhiều nhân tài lớn, trên nhiều lĩnh vực, từ mọi miền đất nước, thậm chí từ cả ngoài nước, trải qua nhiều thế hệ, nhiều thử thách khó khăn mới vun đắp lên nổi một truyền thống, mà có được truyền thống văn hóa lại càng khó khăn hơn. Trong bài viết này tôi chưa đề cập tới những nhà khoa học, những nhà văn hóa và văn nghệ sĩ xuất sắc đang sống và hoạt động tại Thừa Thiên Huế, mà tôi chỉ muốn nói tới chủ yếu các vị đã qua đời nhưng đã để lại dấu ấn sâu đậm, lâu dài cho mảnh đất này, góp phần quan trọng hình thành nên truyền thống văn hóa Huế.

  • Trên thế giới có nhiều nền văn hóa khác nhau. Trong mỗi nước, ngoài mẫu số chung về nền văn hóa của cả dân tộc, còn có văn hóa vùng miền được phân định căn cứ vào đặc điểm nhân văn riêng của từng nơi. Nơi nào có được tính cách nhân văn đặc thù thì nơi ấy có văn hóa địa phương hay văn hóa bản địa. Một từ mà các nhà văn hóa học năng sử dụng khi đề cập đến lĩnh vực này là “bản sắc”. Nếu dùng từ bản sắc làm tiêu chí để nhận diện văn hóa thì Việt Nam có nền văn hóa riêng của mình, trong đó có văn hóa Huế.

  • Tôi quê Hà Tĩnh, nhưng lại sinh ra ở Huế, khi ông cụ tôi ngồi ghế Phủ Doãn, tức là “sếp” cái cơ quan đóng bên bờ sông Hương ở giữa Bệnh viện Trung ương Huế và Trường Hai Bà Trưng - Đồng Khánh xưa, nay đang được xây dựng to đẹp đàng hoàng gấp nhiều lần ngày trước. (Thời Nguyễn phong kiến lạc hậu, nhưng lại có quy chế chỉ những người đậu đạt cao và thường là người ngoại tỉnh mới được ngồi ghế Phủ Doãn để vừa có uy tín, học thức đối thoại được với quan chức trong Triều, vừa tránh tệ bênh che hay cho người bà con họ hàng chiếm giữ những chức vụ béo bở. Nói dài dòng một chút như thế vì nhiều bạn trẻ thời nay không biết “Phủ Doãn” là chức gì; gọi là “Tỉnh trưởng” cũng không thật đúng vì chức Phủ Doãn “oai” hơn, do Huế là kinh đô, tuy quyền hành thực sự người Pháp nắm hầu hết).

  • *Từ tâm thức kính sợ trời đất đến lễ tế Giao: Từ buổi bình minh của nhân loại, thiên nhiên hoang sơ rộng lớn và đầy bất trắc, với những hiện tượng lạ kỳ mưa gió, lũ lụt, sấm chớp, bão tố... đã gieo vào lòng người nhiều ấn tượng hãi hùng, lo sợ. Bắt nguồn từ đó, dần dần trong lịch sử đã hình thành tập tục thờ trời, thờ đất, thờ thần linh ma quỷ. Đó là nơi trú ẩn tạo cảm giác an toàn cho con người thuở sơ khai. Ở phương Đông, tập tục thờ cúng trời đất, thần linh gắn liền với việc thờ cúng tổ tiên, ông bà, phổ biến từ trong gia đình đến thôn xóm, làng xã. Khi chế độ quân chủ hình thành, một số triều đình đã xây dựng những “điển lệ” quy định việc thờ cúng trời đất, thần linh, với những nghi thức trang trọng, vừa biểu thị quyền uy tối thượng của nhà vua, vừa thể hiện khát vọng mong cầu quốc thái dân an, thiên hạ thái bình, phong hoà vũ thuận của muôn dân.

  • Sông Hương thuộc loại nhỏ của Việt Nam, nhưng với Thừa Thiên Huế có thể nói là “tất cả”. Hệ thống sông Hương cung cấp nước, tạo môi trường để phát triển gần như toàn bộ nền kinh tế - xã hội của Thừa Thiên Huế, đặc biệt sông Hương còn là biểu tượng của Huế, hai bên bờ mang nặng di sản văn hoá nhân loại. Nhưng đồng thời nó cũng đưa lại những trận lụt lớn vào mùa mưa, nhiễm mặn vào mùa hè...

  • Huế được Chính phủ xác định là một trong 5 thành phố cấp quốc gia, nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm của miền Trung, cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp, dịch vụ du lịch. Quá trình phát triển đô thị, Huế đồng thời cũng đứng trước những thử thách mới, còn nhiều bất cập nhưng Huế vẫn giữ được nét kiến trúc riêng. Hình ảnh một thành phố mà kiến trúc và thiên nhiên hoà quyện, phải chăng đó là bản sắc Huế, khó trộn lẫn với bất kỳ một đô thị nào khác trong cả nước.

  • I. Toàn cầu hóa và lý luận văn học: I.1. “Toàn cầu hóa” làm cho “thế giới trở nên phẳng” (Thomas F.Fredman). Lý luận văn học là một lĩnh vực khoa học nhằm cắt nghĩa, lý giải, khái quát văn chương, đặt trong khung cảnh đó, nó cũng được “thế giới hóa”, tính toàn cầu hóa này tạo nên một mặt bằng chung, hình thành một ngôn ngữ chung. Từ đó mới có sự đối thoại, tiếp biến học hỏi lẫn nhau giữa các nền lý luận của các châu lục, quốc gia tạo nên một thể thống nhất trong đa dạng.

  • Đêm Nguyên tiêu 15 tháng giêng Quý Mùi 2003, thực hiện chủ trương của Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, Chi hội Nhà văn Việt Nam tại TTH đã tổ chức trên sông Hương một đêm thơ rất tuyệt vời. Ban tổ chức cho biết Hội Nhà văn Việt Nam đã được phép quyết định kể từ năm nay lấy ngày 15 tháng giêng âm lịch hằng năm làm Ngày Thơ Việt Nam. Quyết định ấy lay động tâm trí tôi vốn đang ưu tư với Huế Thành phố Festival, thay vì đọc thơ, trong đêm Nguyên tiêu ấy tôi đã phác họa sơ lược về một Festival thơ. Không ngờ ý kiến của tôi được Đêm thơ Nguyên tiêu hưởng ứng và các nhà thơ đã đề nghị tôi nên thực hiện một Hồ sơ cho Festival Thơ.

  • Trí thức trong bất cứ thời đại nào và ở đâu cũng là một nguồn lực quan trọng, là sức mạnh tinh thần nối kết truyền thống của dân tộc với thành tựu trí tuệ của thời đại. Khi nguồn lực trí tuệ của đội ngũ trí thức gắn kết được với sức mạnh cộng đồng thì xã hội sẽ có những chuyển biến tích cực. Ngược lại, nguồn lực trí tuệ không được phát huy thì năng lực phát triển của xã hội sẽ bị suy thoái. Thừa Thiên Huế có một thời là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của Đàng Trong và trở thành kinh đô của cả nước. Vì thế Huế đã từng là nơi hội tụ nhiều thế hệ trí thức tinh hoa của đất nuớc. Lớp trí thức lớn lên tại Thừa Thiên Huế có điều kiện tiếp cận với những thiết chế và sinh hoạt văn hoá, học thuật có tầm cở quốc gia (Quốc Tử Giám, Quốc Sử Quán, Hàn Lâm Viện, Thái Y Viện. Khâm Thiên Giám.. ), năng lực trí tuệ của trí thức ở kinh kỳ có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển, cả trên lĩnh vực tư duy sáng tạo và quản lý, thực hành.

  • I. Sự hình thành và phát triển hệ thống đường phố ở Huế: Trước khi Huế được chọn để xây dựng kinh đô của nước Việt Nam thống nhất, đất Phú Xuân - Huế kể từ năm 1738 đã là nơi đóng đô thành văn vật của xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Rồi Phú Xuân lại trở thành kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn. Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh toàn thắng quân Tây Sơn; từ Thăng Long ông trở về Phú Xuân, chọn lại đất ấy, lấy ngày lành, lên ngôi vua, xưng hiệu là Gia Long. Tháng 5 năm 1803, nhà vua sai người ra ngoài bốn mặt thành Phú Xuân, xem xét thực địa, định giới hạn để xây dựng kinh thành mới. Trên cơ sở mặt bằng thành Phú Xuân cũ, lấy thêm phần đất của 8 làng cổ lân cận, mở rộng diện tích để xây dựng nên một kinh thành rộng lớn hơn trước. Cùng với việc xây dựng thành quách, cung điện, nha lại, sở ty... thì đường sá trong kinh thành cũng được thiết lập.

  • Thừa Thiên Huế là thủ phủ Đàng Trong thời các chúa Nguyễn, là kinh đô của cả nước dưới thời Tây Sơn và triều Nguyễn, nay là cố đô, một trong những trung tâm văn hoá và du lịch quan trọng của Việt Nam , trải qua quá trình đô thị hoá, vừa mang dấu ấn của một đô thị cổ phương Đông, vừa có đặc trưng của một đô thị mới. Để góp phần định hướng phát triển và tổ chức quản lý vùng đất nầy, một trong những việc cần làm là nên soát xét lại kết quả của quá trình đô thị hóa để lựa chọn những giải pháp quản lý phù hợp.

  • Trong quá khứ, mảnh đất Phú Xuân - Huế đã được chọn để đóng đô thành của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, rồi đến kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn Nguyễn Huệ, sau nữa là kinh đô Việt Nam thống nhất dưới thời họ Nguyễn Phúc trị vì và cuối cùng trở thành cố đô từ sau Cách mạng Tháng 8.1945. Huế đã và đang là thành phố Festival - một thành phố lễ hội mang nhiều thành tố văn hóa đặc trưng của Việt Nam theo một quy chế đặc biệt. Để có cái nhìn khách quan về lịch sử, thiết nghĩ, chúng ta hãy điểm lại vài nét quá trình đi lên của thành phố Huế để trở thành đô thị loại I - đô thị đặc biệt hôm nay.

  • Hội nghị cán bộ Việt Minh mở rộng vào cuối tháng 4 đầu tháng 5/1945 diễn ra trên đầm Cầu Hai đề ra chủ trương lớn để phát triển phong trào cách mạng tỉnh Thừa Thiên Huế, chuẩn bị cùng cả nước khởi nghĩa cướp chính quyền khi có thời cơ. Sau hội nghị, phong trào cách mạng phát triển đều khắp trong toàn tỉnh. Đầu tháng 8, được tin quân đội Nhật bị quân đồng minh đánh bại ở nhiều nơi, nhất là ở Mãn Châu Trung Quốc, Thường vụ Việt Minh dự đoán ngày Nhật theo chân phát xít Đức bị đánh bại không còn xa, đã quyết định đẩy mạnh chuẩn bị khởi nghĩa. Giữa tháng 8 được tin Nhật Hoàng sẵn sàng đầu hàng, Thường vụ Việt Minh chỉ đạo các huyện khởi nghĩa. Sau khi tất cả các huyện phụ cận Huế khởi nghĩa thành công, ngày 20/8 Thường vụ Việt Minh triệu tập 6 huyện bàn quyết định chọn ngày 23.8.1945 là ngày khởi nghĩa giành chính quyền. Cũng ngay chiều ngày 20.8.1945 phái đoàn Trung ương có cụ Hồ Tùng Mậu, anh Nguyễn Duy Trinh và anh Tố Hữu đã đến Huế, vì Huế là thủ đô của chính quyền bù nhìn lúc bấy giờ. Khởi nghĩa ở Huế mang sắc thái đặc biệt có tính chất quốc gia. Ta giành lại chính quyền không phải từ tay một tỉnh trưởng mà là từ triều đình nhà Nguyễn - Bảo Đại ông vua cuối cùng, bên cạnh Bảo Đại lại có cả bộ máy chính quyền Trần Trọng Kim do Nhật lập ra. May mắn thay đoàn phái bộ Trung ương vào kịp thời nên vẫn giữ nguyên ngày khởi nghĩa (23.8.1945). Đêm 20.8.1945 cuộc họp của phái đoàn Trung ương và Thường vụ Tỉnh ủy thông qua kế hoạch khởi nghĩa của tỉnh và cử ra Ủy ban khởi nghĩa gồm có: anh Tố hữu là Chủ tịch đại diện cho Trung ương, tôi làm Phó Chủ tịch (PCT) đại diện cho Đảng bộ và Mặt trận Việt Minh địa phương cùng một số ủy viên: Lê Tự Đồng, Lê Khánh Khang, Hoàng Phương Thảo, Nguyễn Sơn...

  • Ba mươi năm trước, cùng với lực lượng cách mạng, những người làm Báo Cờ Giải Phóng của Đảng bộ Thừa Thiên Huế sôi nổi chuẩn bị số báo đặc biệt và có mặt trong đoàn quân tiến về giải phóng quê hương. Tháng 10/1974, chúng tôi được tham gia hội nghị Tỉnh ủy mở rộng bàn về đẩy mạnh nhiệm vụ đánh kế hoạch bình định, mở rộng vùng giải phóng nông thôn đồng bằng, phối hợp có hiệu quả với các chiến trường, góp phần giải phóng miền Nam, Thường vụ Tỉnh ủy giao nhiệm vụ cho Báo Cờ Giải Phóng ra số báo đặc biệt, nội dung phong phú, hình thức hấp dẫn để chuyển tải khí thế cách mạng miền Nam và trong tỉnh, đưa mệnh lệnh, lời kêu gọi của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Thừa Thiên Huế và các chính sách của Mặt trận đối với vùng giải phóng.

  • Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc, lực lượng an ninh huyện Phú Vang đã nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với 95 thương binh, 135 liệt sĩ và không có một cán bộ, chiến sĩ nào đầu hàng phản bội, lực lượng an ninh huyện Phú Vang và 4 cán bộ an ninh huyện đã được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.

  • Trong mọi thời đại Hoàng đế và kẻ sĩ có mối quan hệ đặc biệt. Đó là mối quan hệ giữa người cầm quyền và người trí thức có nhân cách và tài năng. Khi Hoàng đế là minh quân thì thu phục được nhiều kẻ sĩ, khi Hoàng đế là hôn quân thì chỉ có bọn xu nịnh bất tài trục lợi bên mình còn kẻ sĩ bị gạt ra ngoài thậm chí có khi bị giết hại. Lịch sử bao triều đại đã chứng minh điều đó. Mối quan hệ giữa Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ và La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp của thế kỷ XVIII là cuộc hội ngộ lớn, mang đến nhiều lợi ích cho quốc gia và có ý nghĩa cho muôn đời. Nguyễn Huệ và Nguyễn Thiếp đều sống trong bối cảnh triều Lê suy tàn, chúa Trịnh lộng hành, chúa Nguyễn mới nổi dậy. Sau gần 300 năm hết nội chiến Lê Mạc đến Trịnh Nguyễn phân tranh đời sống nhân dân vô cùng khốn khổ. Trong bối cảnh đó Nguyễn Huệ cùng anh là Nguyễn Nhạc dựng cờ khởi nghĩa, Nguyễn Thiếp cáo quan về ở ẩn.

  • Năm 2008 là một năm khá kỳ lạ và đặc biệt của loài người. Nửa năm đầu, cả nhân loại thăng hoa với các chỉ số chi tiêu mà ngay cả các chiến lược gia kinh tế cũng phải bàng hoàng. Nửa năm cuối, quả bóng phát triển, ổn định bị lưỡi dao oan nghiệt của khủng hoảng đâm thủng nhanh đến nỗi hàng ngàn đại gia bị phá sản rồi, vẫn chưa lý giải nổi hai chữ “tại sao”. Bất ổn và đổi thay còn chóng mặt hơn cả sự thay đổi của những đám mây. Không phải ngẫu nhiên mà người Nhật lại chọn từ “thay đổi” (kanji) là từ của năm, vì B. Obama đã chiến thắng đối thủ bằng chính từ này (change)...

  • Bạn đọc thân mến! Hiệp hội Đo lường Thời gian quốc tế đã quyết định kéo dài thời gian của năm 2008 thêm 1 giây, và chúng ta đã chờ thêm 1 giây để đón chào năm mới. Sau thời khắc 23 giờ 59 phút 59 giây của ngày 31.12.2008, không phải là giây đầu tiên của năm mới mà phải sau thời khắc 23 giờ 59 phút 60 giây cùng ngày, năm 2009 - năm lẻ cuối cùng của thế kỷ 21, mới chính thức bắt đầu. Nhân loại đã có thêm một giây để nhìn lại năm cũ và bước sang năm mới. Và trong một giây thiêng liêng ấy, chắc chắn nhiều ý tưởng sáng tạo đã xuất hiện, nhiều tác phẩm nghệ thuật vừa hoàn tất, âm tiết cuối của câu thơ cuối một bài thơ vừa được nhà thơ viết xong và buông bút mãn nguyện. Cùng với ly rượu vang sóng sánh chúc mừng năm mới được nâng lên, cái đẹp, cái cao cả tiếp tục xuất hiện để phụng sự nhân loại và chắc chắn, những nụ hôn của tình yêu thương đã kéo dài thêm một giây đầy thiêng liêng để dư vị hạnh phúc còn vương mãi trên môi người.