Thơ như là sự bất ngờ

08:33 19/05/2009
JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.

Về mặt nghệ thuật, khi một tác giả muốn nói về một bức tranh, ông ta có thể in một bản sao nhỏ về nó hoặc màu hoặc đen trắng và bạn biết rằng bản sao này không phải là bức tranh thực. Giống với âm nhạc; những quyển sách về âm nhạc chứa đựng những minh họa âm nhạc, và những minh họa này có nghĩa được nghe trong đầu như là một loại tranh âm thanh về điều gì đó mà bạn có thể nghe trong một phòng hoà nhạc. Nhưng với một bài thơ thì lại khác. Tôi không muốn nói giản đơn rằng một từ được in ra là một ký hiệu cho một âm được nói ra: Sự thật, nó là vậy; nhưng nó cũng là một cái gì khác nữa: Nó là một ký hiệu về một đối tượng hoặc một ý tưởng. Điều này có thể xem như hiển nhiên khi bạn nghĩ về nó, nhưng nó thường bị quên đi.

Nếu một bài thơ không giản đơn là những chữ được in ra trên giấy hoặc một ký hiệu cho một loạt những âm được phát ra. Vậy nó là cái gì? Điều ấy hoàn toàn hữu ích ở điểm này; tôi nghĩ, xem một bài thơ như là một sự kiện. Tốt nhất, nó là một sự kiện ma thuật, và xấu nhất, nó chỉ là cái bóng lờ mờ của một sự kiện, hoặc, nếu bạn thích, một sự kiện không hề xảy ra. Hàng loạt từ ngữ được trình bày bằng việc in ấn trên giấy cùng tạo ra một sự tượng trưng của một việc tình cờ hoặc sự kiện diễn ra trong tâm trí nhà thơ. Bài thơ không chỉ giản đơn miêu tả hoặc thuật lại một sự kiện trong tâm trí nhà thơ; chính nó là một sự kiện. Nó không xảy ra trong tâm trí nhà thơ hoặc bất kỳ nơi nào khác cho đến khi nó được viết ra, hoặc ở ngưỡng bất kỳ được viết ra trong tâm trí nhà thơ. Không ai có thể khái quát hoá cái cách mà mỗi nhà thơ viết. Nhưng tôi nghĩ, sự thật để nói rằng có vài kiểu náo động thông thường xảy ra trong tâm trí nhà thơ, và kiểu này có dạng như là một sự kiện mà sự kiện đó có thể được truyền đạt sang những người khác thông qua trung gian của từ được viết ra. Một cơn bão chớp là một sự kiện xảy ra trong khí quyển như là kết quả của một sự nhiễu loạn điện. Những vật tích điện tích tụ trong không khí đến khi sức mạnh của chúng được phóng ra như là ánh chớp và sấm. Một bài thơ có thể xảy ra khi vài kiểu sức mạnh hay sự dồn nén tích luỹ trong tâm trí nhà thơ và đòi hỏi giải toả trong dạng thức một sự kiện thi ca. Vẻ ngoài của chúng không cần phải bất ngờ hoặc bùng nổ như một cơn sấm chớp; nó có thể chậm chạp và từ từ. Vì vậy, tôi phải thêm, điều này biểu hiện ở tất cả kiểu loại thơ, nhưng tôi nghĩ nó biểu hiện nhiều điều tốt nhất.

Đến lúc bài thơ tự nó hình thành trong tâm trí nhà thơ - và nó không tự hình thành một cách đầy đủ ngoại trừ trong suốt quá trình sáng tạo thực sự - nhà thơ không thể chắc chắn tuyệt đối điều mà ông ta sẽ viết ra. Một lần, tâm trí ông ta không bị xáo trộn, hàng loạt sự kiện diễn ra đúng vị trí của nó, sẽ dẫn đến hình thành tổng số của tất cả chất thơ. Người đọc với sự ý thức của mình, sự kiện mới được truyền đạt sẽ không tiếp cận bài thơ một cách chính xác cái kinh nghiệm được hình thành trong tâm trí nhà thơ trước khi ông ta viết nó. Nhưng nếu bài thơ là bài thơ hay - hoặc, đặt nó trong một cách khác, nếu sự kiện bị rối loạn kiểu ma thuật thì ông ta và kể cả nhiều độc giả khác có thể tiếp nhận ở nó một cú sốc hoặc sự bất ngờ. Đó là cú sốc của một kinh nghiệm mới. Kinh nghiệm của độc giả được mở rộng thường xuyên.

Dĩ nhiên, đây không phải là toàn bộ sự thực về thi ca, hoặc bất kỳ cái gì giống nó. Nhưng người ra cũng thường viết về những bài thơ như thể là họ chỉ quan tâm nghĩ về sự chải chuốt ngôn ngữ hoa mỹ. Đó là điều cần thiết để nhấn mạnh điểm mà tôi đang làm. Một học sinh mới đây đã miêu tả thi ca như là "Ô, tất cả nonny nonny và những cây thuỷ tiên hoa vàng đỏ như vấy máu" và đó là cách nhìn thi ca kiểu nhà trường mà chúng ta cần phải né tránh. Cách nói rằng một bài thơ là một sự kiện, tôi muốn nhấn mạnh rằng đó không chỉ là sự rèn luyện tinh thần, tôi muốn trêu ghẹo trí óc, giống như một trò chơi ô chữ; nó là điều gì đó mà dường như thường có tính vật chất hơn là hiệu quả tinh thần. Về điểm này, chúng ta có sự chứng nhận của không phải chỉ một nhà thơ. Chẳng hạn, Housman nói rằng: "Quả thực, thi ca có vẻ như vật chất hơn là tinh thần... Kinh nghiệm đã dạy tôi, khi tôi cạo râu buổi sáng, tôi phải canh phòng những suy nghĩ của mình, bởi vì, nếu một dòng thơ lạc vào trong ký ức tôi, da tôi nổi xù lên đến nỗi chiếc dao cạo ngừng hoạt động. Triệu chứng đặc biệt này được đi kèm bởi một sự rùng mình đến xương sống; có một triệu chứng khác là ở chỗ có một sự thắt lại ở cổ họng và một sự cuống cuồng đến rơi nước mắt; và có một triệu chứng thứ ba mà tôi chỉ có thể miêu tả bằng việc mượn một thành ngữ từ một trong những là thư cuối cùng của Keats, ông nói về Fanny Brawne "Mọi thứ nhắc nhở tôi về nàng nó đi qua tôi như một lưỡi mác". Vị trí của cảm giác này là cái hố của thượng vị.

Trước thời Housman, nhà thơ Mỹ Emily Dickinson đã làm một khám phá tương tự đối với chính bà:
"Nếu tôi đọc một quyển sách và nó làm toàn thân tôi lạnh đến nỗi không có ngọn lửa nào có thể làm cho tôi ấm lên, tôi biết đó là thi ca. Nếu tôi cảm thấy mạnh mẽ như thể đỉnh đầu tôi bị vỡ ra, tôi biết đó là thơ ca. Đó chỉ là những cách mà tôi biết. Có cách nào khác nữa không?"

Housman và Emily Dickinson, bạn có thể nói, họ là những nhà thơ, không phải là những độc giả bình thường. Nhưng Susan Gilbert - bạn của Emily Dickinson không phải là nhà thơ, và bà ta cũng đã trải qua cảm nghĩ tương tự. Viết cho Emily Dickinson về câu mở đầu trong bài thơ tứ tuyệt của bà: "Chiếc chạn đồ ăn trong những căn buồng thạch cao của họ", bà đã nói: "Tôi luôn luôn đi đến lò sưởi và sưởi ấm sau khi nghĩ về nó, nhưng tôi không bao giờ có thể được như thế nữa". Tóm lại, một số bài thơ - không phải là tất cả - nếu đọc với sự tập trung thích đáng và phát hiện ngay thời điểm ấy trong đời bạn, nó có thể đập vào bạn với cú sốc của một trải nghiệm vật lý có thật. Điều này có lẽ không xảy ra thường xuyên; nhưng nếu không phải là bạn đọc chuyên tâm thì hoàn toàn không biết loại hiệu quả này. Sau khi trích dẫn dòng thơ của Milton "Những kiều nữ và những người chăn cừu, thôi đừng múa nữa", Housman đã nói:

Điều gì có thể làm rơi lệ, khi tôi biết nó có thể tác động đến thị giác của nhiều độc giả? Điều gì trong thế giới đó để khóc than? Tại sao chỉ những từ mà nó có hiệu quả cảm xúc trong con người khi ý nghĩa của đoạn thơ thì sung sướng, vui vẻ? Tôi chỉ có thể nói, bởi vì chúng là thi ca, và thấy được cái cách của chúng, mang lại cái gì đó trong con người, đó là sự mơ hồ và sự tiềm ẩn, một cái gì đó cũ xưa hơn sự cấu tạo hiện có của tự nhiên...

Ở đây, Housman đang khái quát một kinh nghiệm cá nhân. Trong trường hợp của ông, để trả lời cho câu hỏi "Có điều gì để khóc than?" không phải là khó tìm thấy. Điều ấy chúng ta nên xem ông như là một người đọc thơ rất sành văn chương; ông là một học giả kinh điển, và những từ "Những kiều nữ và những người chăn cừu" sẽ gợi lại đối với ông toàn bộ thế giới đa thần nửa tưởng tượng của nhà thơ đồng quê Hy Lạp: Theocritus. Thế giới này là một trong những niềm hạnh phúc tưởng tượng, và nó đã biến mất từ lâu. "Thôi đừng múa nữa" gợi ra những niềm vui ngây thơ đã ra đi không trở lại. Chúng ta biết rằng Housman là một người cực kỳ sầu muộn bị đè nặng với một cảm giác đánh mất tính ngây thơ và niềm vui vô tư lự. Khi còn trẻ, tôi đã viếng thăm ông một lần, rất ngắn, trong căn phòng của ông ở Cambridge, và tôi nhắc lại sự nghiêm khắc và sự hằn sâu ớn lạnh của bức tranh Bệnh u sầu của DÜrer treo ngay trong cửa lớn của ông. Với một người như thế, ý nghĩ về sự ngây thơ vui vẻ bị biến mất lâu ngày, quả thực, có thể mang lại sự khóc thương khi diễn tả những từ du dương trong tác phẩm của Milton. Được dồn nén lại trong chỉ sáu từ ngắn, tất cả sự gợi nhắc, tất cả sự cảm động đằng sau ý nghĩ đó có thể bùng cháy trong tâm trí của độc giả - thi sĩ này bằng sức mạnh của một cú sốc. Có lẽ bạn không bị đè nặng bởi một cảm giác mất tính thơ ngây; có lẽ bạn đã không đọc Theocritus, và bạn biết hoặc không quan tâm cái gì cả về những những kiều nữ những người chăn cừu kia. Rồi dòng thơ của Milton sẽ có ý nghĩa nhỏ đối với bạn. Điều đó không có nghĩa bạn kém cõi trong cảm xúc và lãnh đạm với thi ca. Điều đó có nghĩa giản đơn rằng bạn sẽ phải tìm thấy sự thoả mãn trong những bài thơ khác hoặc những nhà thơ khác. Tôi từng nói rằng một bài thơ là một sự kiện: nó cũng là một sự thực hiện (sự giải quyết) giữa bạn và nhà thơ. Mỗi người đọc là khác nhau, và cùng một bài thơ sẽ có hiệu quả khác nhau ở mỗi độc giả. Những bài thơ hay nhất là những bài thơ mà chúng có thể làm nên ấn tượng sâu sắc nhất về nhịp điệu đặc sắc và sự đa dạng ở người đọc qua từng thời kỳ dài lâu nhất.

Mỗi độc giả là khác nhau; nhưng tất cả độc giả có đặc tính chung. Yếu tố chung này chúng ta có thể gọi là bản chất người. Thông qua bản chất người chung này mà một nhà thơ nói với độc giả ở những nơi chốn khác và ở thời điểm khác hơn là cái riêng của ông ta. Để làm như thế, ông ta làm cho hợp theo cách riêng bởi vì môi giới mà ông làm nên là ngôn ngữ; và ngôn ngữ là mối ràng buộc giữa những thành viên khác nhau của cùng loài người. Những từ "nhà", "tình yêu", "cái chết", "cuộc sống", "tình thương", "hoà bình"... nhìn chung đều có những yếu tố rộng trong tâm trí của tất cả độc giả; tuy vậy, mỗi từ có nghĩa gì đấy khác nhau không đáng kể trong tâm trí mỗi người. Ngay cả những khái niệm đơn giản hơn như gương mặt, quyển sách, tấm gương... đều tạo ra những hình ảnh khác nhau trong tâm trí những độc giả khác nhau. Một biểu lộ chẳng hạn như "Tôi nhìn sâu vào tấm gương soi của tôi" (Hardy) hoặc "Sự trung thành là một chuyện bịa tốt đẹp" (Emily Dickinson) hoặc "Những lối đi được dẫn dắt rực rỡ nhưng tối tăm" sẽ có trong tâm trí của mỗi độc giả một hạt nhân tương tự cơ bản và đồng thời gợi nhắc những hình ảnh, những liên tưởng vô cùng khác nhau. Đó là tính chất của thơ, để rồi, đánh thức bản chất người của độc giả và đồng thời đưa ra một kinh nghiệm khác nhau như thế. Hình ảnh nào đập vào cái nhìn bên trong của bạn khi bạn đọc câu thơ của De la Mare "Rất già là những cánh rừng"? Nếu bạn chưa bao giờ ở ngoài thành phố, hình ảnh này có thể là một hình ảnh mơ hồ; nó có lẽ không gì hơn là một tập họp lại của một bức tranh treo trên tường trong vài căn phòng mà bạn rất thân thuộc nó. Trong suy nghĩ của tôi, dòng thơ này là không thể tách rời những rừng sồi cao, uy nghiêm đã vây quanh ngôi nhà - nơi tôi lớn lên. Cây cối trong vườn tôi đều phủ xám và thẳng, được tắm lọc thành màu xanh nhạt bởi ánh sáng mặt trời. Những cây cối của bạn có thể là những cây thông ảm đạm, những cây tuyết tùng đỏ hoặc những cây sồi trải dài. Bạn có thể nói rằng nhà thơ khái quát hoá và độc giả đặc thù hoá, và điều này làm nên mối quan hệ giữa họ. Nếu nhà thơ quá tỉ mỉ, quá chi tiết và cá biệt, ông ta có thể đánh mất ảnh hưởng của mình đối với độc giả; điều mà ông ta sẽ viết ra có thể quá nhiều, giống như một cuốn sách hướng dẫn viết bằng thơ, và không có gì được để lại trong trí tưởng tượng của người đọc. Bài thơ không làm nên những nhu cầu đối với người đọc - như thế, họ đã đánh mất sự quan tâm. Nhưng khi Shisley viết câu thơ "Cái chết đặt trong cánh tay băng giá của anh ta thuộc trách nhiệm của những ông vua", thì ông ta kích thích trí tưởng tượng bởi vì nhà thơ đã để lại cho bạn phải làm đầy những chi tiết về hình ảnh của cái chết trong cánh tay băng giá, và hình ảnh của những ông vua đã đập vào trong bạn. Nhà thơ tạo ra một phát ngôn chung mà ngay cả sự lớn lao nhất trên mặt đất cũng đều chết, và đặt nó trong một dạng thức như vậy để kích thích sức tưởng tượng của người đọc để làm hoàn hảo hình ảnh ấy.

Tôi đã trích dẫn hai nhà thơ: Housman và Emily Deckinson như là sự chứng minh về cú sốc vật chất mà những bài thơ có thể cung cấp. Sự chứng nhận của các nhà thơ luôn luôn nghe có giá trị. Keats có vài điều để nói về cái điểm mà tôi vừa đang bàn luận. Ông ta nói: "Nếu thơ ca đến không phải tự nhiên như những chiếc lá đối với một cái cây, thì tốt hơn nó đã không đến tất cả... Nó sẽ gây bất ngờ bởi một sự quá ngưỡng tốt đẹp, và không phải bởi sự kỳ dị; nó sẽ đánh vào người đọc như là một lời nói của những suy nghĩ quý giá của riêng nhà thơ, và xuất hiện gần như một sự hồi tưởng"

Dường như có một sự mâu thuẫn ở đây. Một bài thơ hình như có một sự phát triển; nó cũng sẽ hiện ra như một điều gì đó mà người đọc đã nghĩ suy hoặc đã từng kinh qua, vì vậy, nó sẽ gây bất ngờ bởi một sự quá ngưỡng tốt đẹp. Nếu bài thơ tự nhiên, bạn có thể nói, nó có thể quá ngưỡng bằng cách nào? Nếu bài thơ đập vào bạn "gần như là một sự hồi tưởng", nó có thể gây bất ngờ bằng cách nào? Keats, ở đây, đã làm sáng tỏ về một trong những điều huyền bí hoặc những nghịch lý của thi ca. Một cú sốc hiệu quả hơn chính là ở tất cả sự không mong đợi ấy. Một điều gì đấy không thể gây bất ngờ thực sự đối với bạn nếu nó là khó tin (lạ thường). Bạn phải cảm thấy ngay khi bạn nhận thức nó, rằng nó phải xảy ra. Khi chúng ta đọc 4 câu thơ của Emily Dickinson:

Linh cảm là bóng râm lan dài trên bãi cỏ
Nó nói rằng vừng mặt trời đã tắt
Báo trước với thảm cỏ nảy mầm
Rằng bóng tối rồi sẽ đi qua

Trước tiên, chúng ta bị chưng hửng bởi một cách nói lạ kỳ như thế; vì vậy, sự bất ngờ của chúng ta ở sự kỳ cục hiện có của nó lập tức hiện ra chỗ để ta công nhận sự đúng đắn về sự quan sát của nhà thơ. Chúng ta thấy trong cái nhìn tinh thần của chúng ta vài bãi cỏ xanh mà chúng ta biết hoặc đã từng biết, với cái bóng râm dài của buổi chiều đang cắt ngang qua khoảng đất đầy nắng. Với Emily Dickinson cái bóng râm này là một linh cảm về bóng tối sẽ đến, và chúng ta chia xẻ với bà cái cảm giác báo trược lạnh lẽo. Làm thế nào chúng ta có thể cảm nhận điều này nếu điều cảm nhận là không có thật - ít nhất - trong tiềm thức chúng ta? Tôi không thể nói với mỗi bạn đọc. Có lẽ bạn không trải qua một cảm nhận như thế. Nhưng với tôi, ít nhất, những dòng thơ này đánh thức tôi như một lời của những suy nghĩ riêng tôi về những bóng râm trên bãi cỏ ấy. Chúng ta có thể bỏ quên nó lúc đó hoặc chúng ta lưu giữ nó lâu hơn nữa và nói rằng Emily Dickinson là chủ thể đặc biệt sợ hãi bóng tối, bởi vì nó được liên hợp với cái chết. Cái chết là một nỗi sợ hãi thường trực làm thành sự sống mà bà ta đã yêu tạm thời trong tình trạng cùng cực. "Thảm cỏ nẩy mầm" trước hết dường như là một nhóm từ thừa, cho đến khi chúng ta nhận ra rằng bà đã đồng nhất một cách khoảnh khắc chính bà với thảm cỏ mà bà thường làm với các sự vật trong thiên nhiên; và chính bà, người nảy ra bởi sự trôi qua (tức là băng qua) của đêm tối. Trong cách này cả hai nhóm từ đều gây bất ngờ bởi một sự quá ngưỡng mỹ lệ và chính thời điểm này tự nó bộc lộ như một sự ngớ ngẩn hoàn hảo. Bà là một nhà thơ luôn tiếp tục gây bất ngờ bởi sự quá ngưỡng, vì vậy, làm thoả mãn bằng sự chính xác và sự thật của một cách nói vó vẻ nghịch lý của bà:

- Sự thành công được tính toán ngọt ngào nhất
  Bởi những người chưa bao giờ được thành công
- Niềm hân hoan là sự ra đi
  Của một linh hồn từ đất liền đến bể
- Một người không cần ở một căn buồng có ma

Đó là kết hợp của sự bất ngờ và sự ngớ ngẩn, của sự kỳ lạ và sự thật để gây khoái cảm chúng ta trong những bài thơ như thế này. Nhưng như Keats đã thấy, hai phẩm chất ưu tú phải đi cùng nhau. Thi ca mà không có sự bất ngờ thì không thể thu hút sự chú ý của chúng ta; thi ca mà không có vẻ ngớ ngẩn (nhưng là phần thừa liên tục) thì nó không thể giữ được lâu dài.

Những mụ phù thuỷ hoan hô Macbeth khi lần đầu tiên ông xuất hiện đã thu được sự chú ý của ông ta và họ làm cho sự ảnh hưởng độc ác của mình sang ông, bởi vì họ làm ông giật mình tận trong sâu thẳm, khó làm khớp những suy nghĩ bởi sự xưng hô với ông như thế này: "Tất cả lời chào, Macbeth, đó sẽ là ông vua trong tương lai". Một cách tưong tự, một nhà thơ củng cố và giữ sự quan tâm của bạn bằng việc để cho bạn biết cái điều mà bạn đã hiểu một nửa, và diễn tả nó trong một kiểu bất ngờ và mới mẻ. Rồi, kế theo, có một nghịch lý tương tự về chính nhà thơ. Ông ta sẻ chia những ý nghĩ và cảm nghĩ của người đọc, thực ra ông đoán trước họ, cho nên ông được phú cho bởi một sự sẻ chia tính người đầy đủ. Tuy nhiên, đồng thời, nếu ông ta không khác với bạn đọc, ông sẽ không được thêm gì cho ông, không có khả năng để gây bất ngờ và thoả mãn mình. Điều làm cho một nhà thơ khác, cũng như giống với người khác là gì?

HỒ THẾ HÀ
Dịch từ Understanding Poetry của James Reeves
(Published 1967 by Pan Book Ltd, Cavaya Place, London
SW 109 PG.
Phần 5, từ trang 40 đến trang 47)
(171/05-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.

  • TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.

  • TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

  • HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

  • THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.

  • ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…

  • HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...

  • PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...

  • HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.

  • HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.

  • ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.

  • LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.

  • TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.

  • PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!

  • NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.