Thơ Mỹ La Tinh hiện đại: vấn đề và suy nghiệm

08:55 24/04/2009
BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.

Nền thơ ca này đã đạt được những thành tựu lớn ở bình diện quốc tế với hai giải Nobel về thơ ca là giải thưởng Nobel dành cho Pablo Neruda, nhà thơ Chi Lê vào năm 1972 và Octavio Paz, nhà thơ Mêhicô vào năm 1990, chưa kể là giải thưởng Nobel cũng về thơ, dành cho nữ thi sĩ Gabriel Mistral, người Chilê vào năm 1945. Giải thưởng Nobel dành cho nữ thi sĩ này như cái mốc, đánh dấu sự thành tựu và phát triển của nền thơ ca Mỹ - La tinh nửa đầu và nửa thứ hai của thế kỷ XX.

2. Ba giải thưởng Nobel văn chương dành cho thơ Mỹ - La tinh từ 1945 đến 1990, ghi nhận những thành tựu lớn của nền thơ ca này. Những đỉnh cao này gắn với nền thơ ca phong phú, đa dạng, luôn luôn vận động đổi mới, vừa kế thừa, vừa tổng hợp, vừa phát triển những cách tân của nền thơ ca thế giới, vừa tìm tòi những con đường riêng, gắn với thực tại của Châu Mỹ - La tinh, và những nỗ lực độc đáo của từng nhà thơ, từng nền thơ ca riêng của các quốc gia Chi lê, Mêhicô, Nicaragoa, Áchentina...

3. Những thành tựu quốc tế về thơ Mỹ - La tinh là kết quả của những dòng chảy sôi sục, mãnh liệt của nền thơ ca này của cả thế kỷ, đặc biệt nó gắn với những tìm tòi về hình thức, ngôn ngữ, âm điệu, hình tượng thơ ca, cũng như sự phát hiện chiều rộng và chiều sâu bao la của thực tại và của thế giới tinh thần con người Mỹ - La tinh. Nổi trội là khuynh hướng “dấn thân” vào những vấn đề xã hội - chính trị nóng bỏng của châu lục Mỹ - la tinh và cả thế giới như thơ của Pablo Neruda, Cesar Vallejo (Pêru), Ernesto Cardenal (Nicaragoa) Nicolas Guillén (Cu Ba). Bên cạnh đó, khuynh hướng thứ hai là khuynh hướng thơ ca “đi sâu vào thế giới bên trong của tâm hồn con người”, nhằm khám phá những bí ẩn sâu thẳm lạ kỳ của nó với những chiều sâu và tầm cao của triết học, nó tái đào sâu những vấn đề vĩnh cửu của con người: Tình yêu, sự sống, cái chết, nỗi cô đơn, vẻ đẹp của thiên nhiên, hay những nỗi buồn trong một thế giới phù du, hữu hạn..., với những hình bóng nổi trôi của thực tại như thơ ca của Louis Borges (Áchentina), Óctavio Paz (Mêhicô). Hai khuynh hướng này hòa quyện với nhau ở từng nhà thơ, từng thời điểm của thế giới tinh thần của họ và những biến chuyển của thực tại chung quanh họ. Một khuynh hướng thơ ca thứ ba là gắn với thực tại cuộc sống hàng ngày, với niềm vui, nỗi buồn của nó, với sự đa dạng muôn mặt của cuộc sống. Khuynh hướng này đưa thơ ca từ đỉnh cao của tháp ngà cô đơn của cá nhân, hay từ những đỉnh cao của các biến cố, sự kiện nóng bỏng của thực tại xã hội chính trị để trở về với cái hằng ngày với chất thô rám, sần sùi của nó. Khuynh hướng này thể hiện trong một loại ngôn ngữ gắn với ngôn ngữ hàng ngày, văn xuôi hoá nó, thể hiện ở các trào lưu thơ như “ngoại hiện” (“exteriorist”) ở Trung Mỹ, “hội thoại” (“collquiale”, hay “conversation”) ở Cu Ba, hay cụ thể (“concrète”) ở Brazin, hoặc “phản - thơ ca” (“anti- poèmes”) ở Chi lê.

Ba khuynh hướng thơ ca này đối lập, xô đẩy nhau, kế tiếp nhau, nhưng cũng có khi thâm nhập vào nhau, liên kết với nhau tuỳ theo từng chặng đường thơ của mỗi nền thơ ca quốc gia, mỗi nhà thơ.

4. Một trong những vấn đề thơ ca Mỹ - La tinh quan tâm là hiệu quả và tác động của thơ ca đến công chúng, mà một song luận nóng bỏng và gay gắt được đặt ra đối với các nhà thơ và cả nền thơ ca Mỹ - La tinh, mà có lẽ cũng đối với thơ ca thế giới. Đó là loại thơ ca “khó hiểu” hay “không thể hiểu được”, thơ ca “bí hiểm” đối với công chúng bình thường, chỉ dành cho một thiểu số đặc biệt và một loại thơ ca “dễ hiểu” hay “có thể hiểu được” đối với đa số độc giả. Đây là một vấn đề mà nhà thơ Pablo Neruda đã đặt ra với những nhà thơ. Nó bao hàm vấn đề cách tân đến mức độ nào và cách tân ra sao? Mối quan hệ giữa cách tân và truyền thống nên như thế nào? Nó cũng đặt ra vấn đề nhạc điệu, âm điệu, vần điệu của thơ ca nên như thế nào, trúc trắc hay du dương, hay là loại thơ không cần vần điệu với kiểu văn xuôi thô ráp mà vẫn có chất thơ; vấn đề của thơ ca với ca khúc hiện đại (nhạc pop chẳng hạn), vấn đề thơ ca hiện đại và thơ ca dân gian của người da đỏ, da đen,... Hoặc là vấn đề ký hiệu thẩm mỹ của ngôn từ thơ ca với các loại ký hiệu khác như hình vẽ, tranh trừu tượng, ký hiệu của ngôn ngữ máy tính..., loại thơ calligramme (thơ hình vẽ)...

5. Hai hình thức đặc biệt của thơ ca là trường ca (thơ rất dài) và thơ “cực ngắn”, hay kiểu thơ “Hai ku mới này” cũng là vấn đề được đặt ra và gây tranh luận mà hai cực là các trường ca của Pablo Neruda (“Trú xứ trên mặt đất”, “Bài ca chung”) và thơ cực ngắn (Óctavio Paz)

6. Về ngôn ngữ thơ ca nhiều vấn đề cũng được nêu lên, thơ lắm lời tràng giang theo kiểu baroque, hay là một ngôn ngữ thơ tinh, chắc, hàm súc, như kiểu cách ngôn... vấn đề có nên sử dụng ẩn dụ độc đáo, khó hiểu hay không, và nếu sử dụng thì nên như thế nào, mức độ ra sao?...

7. Một trong những vấn đề có lẽ là quan trọng nhất đối với thơ ca Mỹ - La tinh là vấn đề tiếp biến các trào lưu thơ ca quốc tế hiện đại, đặc biệt là các “trào lưu tiên phong” trong thơ ca Châu Âu và Bắc Mỹ như thơ siêu thực (surréalisme) thơ đa đa (dadaisme), thơ vị lai (futurisme), thơ ảnh tượng (Imagisme), thơ “beat”... và vấn đề “bản địa hóa”, “Châu Mỹ - La tinh hoá” như thế nào? Có thể thấy rằng thơ Mỹ - La tinh đã bắt nhịp vào thơ hiện đại của Châu Âu và Bắc Mỹ đến nỗi, có nhà nghiên cứu cho rằng có ba thế hệ “tiên phong chủ nghĩa” (avantgardisme) ở nền thơ ca Mỹ - La tinh, nhưng nó hiện đại hoá, quốc tế hoá theo kiểu đặc thù của nó, gắn với sự tìm tòi riêng, phát triển riêng, về mặt hình thức, cũng như mặt nội dung.

- Có thể thấy rằng thơ ca Mỹ - La tinh đã làm một cách mạng hình thức và ngôn ngữ thơ ca, và đôi khi nó đẩy đi thật xa đến chỗ bí hiểm. Như nhà thơ Vincent Huidobro (Chilê) đã từng quan niệm: “Trong văn chương, tôi thích tất cả những gì cách tân, những gì độc đáo. Tôi thù ghét lối mòn, khuôn sáo, từ chương”. Hoặc nhà thơ Luis Borges (Achentina) đề nghị bác bỏ “mỹ học thụ động của các tấm gương” và đề xuất đối lập “mỹ học tích cực của những lăng kính sáng tạo độc đáo chủ quan” qua sức mạnh của các ẩn dụ. Tuy nhiên, cuộc cách mạng hình thức nhiều khi lại gắn liền với cuộc cách mạng về cái nhìn, cách nhìn mới đối với thực tại, thấy được trong thực tại các khía cạnh vô hình, giấu mặt, khám phá một thực tại mới đôi khi kỳ lạ, diệu kỳ, khác thường, bí ẩn...

- Nhưng bên cạnh đó, thơ ca Mỹ - La tinh nhiều khi cũng trở về với lối thơ truyền thống hơn, nhưng một lối thơ truyền thống đã thâm nhập không khí của các trào lưu tiên phong.

8. Những vấn đề trên thâm nhập biện chứng vào nhau, chuyển hoá lẫn nhau trong những ngả đường tìm tòi, vận động và phát triển của thơ ca Mỹ - La tinh hiện nay. Nhưng trên hết, nói như Nicolas Guillén (Nhà thơ Cuba) “Sứ mệnh cao cả nhất của nhà thơ là làm thơ cho hay”. Và thơ phải gợi lên cả một thế giới bí ẩn sâu xa như Octavio Paz (Nhà thơ Mêhicô) đã từng quan niệm:

Giữa những gì tôi thấy và nói
Giữa những gì tôi nói và im
Giữa những gì tôi im và mơ
Giữa những gì tôi mơ và quên
Là thơ
Thơ len vào giữa có và không
Thơ nói những gì tôi im
Thơ im những gì tôi nói
Thơ mơ những gì tôi quên...
...

B.N
(
202/12-05)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐINH VĂN TUẤN

    Trong số mấy bài thơ chữ Nôm còn lại của Bà Huyện Thanh Quan, bài thơ “Qua Đèo Ngang” là bài thơ gần đây được tranh luận nhiều nhất về chữ nghĩa, đặc biệt là về từ ngữ “cái gia gia”(1).

  • KHẾ IÊM

    Tựa đề về cái chết của hậu hiện đại không có gì mới vì đã có khá nhiều bài viết bàn về vấn đề này, từ những đầu thập niên 1990. Nhưng bài viết đã phác họa cho chúng ta thấy đời sống văn hóa trong thời đại sau chủ nghĩa hậu hiện đại với sự xuất hiện những phương tiện công nghệ mới. Lạc quan hay bi quan, chúng ta chưa biết, nhưng rõ ràng những hệ tư tưởng cũ đang dần dần bị tàn phai nơi những thế hệ mới.

  • ALAN KIRBY

    LTS: Alan Kirby nói chủ nghĩa hậu hiện đại đã chết và đã được chôn. Tới thế chỗ của nó là một hệ hình mới của thẩm quyền và kiến thức được hình thành dưới áp lực của những công nghệ mới và các lực lượng xã hội đương đại. Tựa đề bài tiểu luận, lần đầu tiên xuất hiện trên tạp chí Philosophy Now (Triết học Bây giờ) ở Anh, số 58, năm 2006, và sau đó được in trong cuốn “Digimodernism: How New Technologies Dismantle the Postmodern and Reconfigure Our Culture”, được Continuum xuất bản vào năm 2009.

  • LÊ QUỐC HIẾU

    Trong các bộ phận của khoa nghiên cứu văn học Việt Nam hiện nay, không thể phủ nhận lý luận, phê bình là lĩnh vực có nhiều thay đổi rõ rệt. Một loạt những công trình nghiên cứu lịch sử lí luận, phê bình văn học “trình làng” trong những năm qua[1], đủ để nhận thấy tham vọng khái quát, đánh giá của các nhà nghiên cứu sau mỗi chặng đường phát triển của văn học.

  • THÁI KIM LAN
    I.
    Bài viết này được mở đầu bằng một trải nghiệm tự thân, từ chỗ đứng của chủ thể thực hành nói ra kinh nghiệm của mình, vì thế có thể gây ấn tượng về tính chủ quan. Sự trách cứ ấy xin nhận lãnh trước, nhưng xin được tạm thời để trong dấu ngoặc.

  • LUÂN NGUYỄN

    Nhất đình sơn vũ luyện hoa khai
                 (Mộ xuân tức sự - Nguyễn Trãi)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ

    (Trích tham luận tại Hội thảo "Văn học trước yêu cầu đổi mới" tháng 12-1987)

  • BỬU CHỈ

    Đã từ lâu tôi vẫn nghĩ và tin rằng: quê hương của nghệ thuật là Tự Do, và nghệ thuật đích thực phải thoát thai từ những con người sáng tạo có đầy đủ quyền làm người, cùng tinh thần trách nhiệm đối với cộng đồng xã hội của họ; và lớn hơn nữa là đối với con người.

  • LÊ QUANG THÁI

    Năm Quý Tỵ đã trôi qua, Xuân Giáp Ngọ đã về:
    Rắn trườn đã hết năm,/ Ngựa hay đưa Xuân về.(1)

  • ĐỖ LAI THÚY

    Kìa ai chín suối xương không nát
    Ắt hẳn nghìn thu tiếng vẫn còn
                   
    (Nguyễn Khuyến)

  • TRẦN HUYỀN TRÂN

    Có lẽ, Cám dỗ cuối cùng của Chúa là cuốn tiểu thuyết nói về khoái lạc trần tục của Jesus một cách táo bạo nhất?

  • NGUYỄN DƯ

    Hôm ấy bạn bè họp mặt ăn uống. Chuyện nổ như bắp rang. Tôi khoe mình đã từng ba lần đội trời đạp đất trên đỉnh đèo Hải Vân. Một bạn hỏi đèo Hải Vân có gì đặc biệt? Câu hỏi bất ngờ làm tôi cụt hứng. Ừ nhỉ… đèo Hải Vân có gì đặc biệt?

  • PHAN TUẤN ANH

    “Lịch sử như là đem lại ý nghĩa cho cái vô nghĩa”
                                                               (T.Lessing)

  • Ngày nay, nhìn lại chủ trương cách mạng của Phan Châu Trinh cách đây hơn một thế kỷ, một lần nữa chúng ta lại thấy tầm nhìn của một người mang khát vọng Khai dân trí, Chấn dân khí, Hậu dân sinh.

  • NGUYỄN THỊ TỊNH THY

    Sau khi đọc bài trao đổi của Triệu Sơn trên tạp chí Sông Hương số 10/2013 về bài viết của tôi trên tạp chí Sông Hương số 8/2013, tôi xin có mấy ý trả lời như sau:

  • PHAN NGỌC

    Trong quyển "Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong truyện Kiều", tôi có dùng một số thuật ngữ chuyên môn. Trong phạm vi quyển sách tôi không thể trình bày kỹ cách hiểu của mình, cho nên có sự hiểu lầm. Giờ tôi xin trình bày kỹ hơn khái niệm "thức nhận", cơ sở của tác phẩm, để bạn đọc dễ đánh giá hơn.

  • YẾN THANH

    Trong bài viết này, chúng tôi muốn nhìn nhận những cống hiến của GS.TS Lê Huy Bắc trên lĩnh vực khoa học, đây là những thành tựu mà theo chúng tôi, vừa có tính lan tỏa, lại vừa có tính bền vững. Bởi vì, có thể nhiều học viên, nhà nghiên cứu dù không trực tiếp được nhà khoa học giảng dạy, hướng dẫn, nhưng từ những công trình, bài báo khoa học, vẫn được kế thừa và chịu sự tác động từ người thầy đó. 

  • TRIỆU SƠN

    Bài này nhằm trao đổi với tác giả Nguyễn Thị Tịnh Thy về những bất cập của nghiên cứu, phê bình văn học hiện nay nhân đọc bài “Những bất cập và thái quá trong nghiên cứu văn học hiện nay” của tác giả trên Sông Hương, 294/08-13.

  • PHAN TRỌNG HOÀNG LINH

    Được Bakhtin đề xuất trong công trình nghiên cứu về sáng tác của Frăngxoa Rabơle, thuật ngữ chủ nghĩa hiện thực nghịch dị (grotesque realism) là sự định danh ước lệ cho một kiểu hình tượng đặc thù (hay phương pháp xây dựng hình tượng đặc thù) của nền văn hóa trào tiếu dân gian, kiểu hình tượng nghịch dị.

  • LTS: Phạm Phú Uyên Châu, bút danh Meggie Phạm, sinh năm 1991, hội viên trẻ nhất của Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, tác giả của bộ truyện dài liên hoàn do Nxb. Trẻ ấn hành: Hoàng tử và em (2011, tái bản 2011), Giám đốc và em (2011, tái bản 2012), Chàng và em (2012, tái bản 2012), Người xa lạ và em (2012) và Tôi và em (đang in).