Thơ là phương tiện đồng hoá con người với sự sống

14:53 26/08/2009
THẠCH QUỲThơ đi với loài người từ thủa hồng hoang đến nay, bỗng dưng ở thời chúng ta nứt nẩy ra một cây hỏi kỳ dị là thơ tồn tại hay không tồn tại? Không phải là sự sống đánh mất thơ mà là sự cùn mòn của 5 giác quan nhận thức, 6 giác quan cảm nhận sự sống đang dần dà đánh mất nó. Như rừng hết cây, như suối cạn nước, hồn người đối diện với sự cạn kiệt của chính nó do đó nó phải đối diện với thơ.

Nhà thơ Thạch Quỳ - Ảnh: nhathonguyentrongtao.wordpress.com

Các nhà thơ chúng ta cần liên hiệp lại, cần lên tiếng báo động thơ cấp bách như tổ chức hoà bình xanh lên tiếng báo động về môi trường vậy. Môi trường thơ suy thoái cũng chính là cái lõi của môi trường sống suy thoái. Môi trường thơ hiện tại cũng đã là vấn đề toàn cầu như môi trường sống vậy. Các nhà thơ chúng ta không thể hình dung nổi một sự sống không thơ, một sự sống điều hành Rô-bốt mà chính mình cũng thành Rô-bốt! Không phải riêng tôi nói to lên, phóng đại lên một nỗi lo hão huyền mà chừng như tất cả các nhà thơ đều ít nhiều có mang trong mình nỗi lo âu phấp phỏng đó. Các nhà thơ rất nhạy cảm trước các lý do mà thực tế cuộc sống buộc thơ phải đối diện. Thơ là con đẻ của sự tĩnh lặng đồng thời là thiên sứ trở về nhập hồn trong sự tĩnh lặng đó. Tiếc thay, cuộc sống hiện đại không nhiều khoảng trống cho sự tĩnh lặng đó. Chừng như cái khoảng lặng trong đêm ngón tay “cảo thơm lần giở trước đèn” đã đi qua chúng ta như một hoài niệm để nhường chỗ cho thế giới nghe nhìn cuống cuồng, nhấp nhoáng và nhộn nhịp trên ti vi, trên các màn hình vi tính. Các sản phẩm “mì ăn liền” đang khuyến dũ con người vào thế giới tinh thần về sự “ăn liền” rất nhạy cảm của các phản ứng. Những câu thơ ngân nga ở tầng sâu, ở nơi giáp ranh của thế giới hư thực, mộng mơ và huyền ảo đang dần dà bị chối bỏ. Văn hoá đại chúng thích hợp cho các sáng tạo thị trường. Thơ không thể chỉ căn cứ vào sự nghiên cứu thị trường, thị hiếu mà sáng tạo. Bởi làm thế là tự thơ đã mâu thuẫn với bản chất của nó để tự đánh mất nó. Thơ có thị trường, thị hiếu nhưng đó là thị trường, thị hiếu có chọn lọc. Nếu người có cấp người, cấp văn hoá của người thì thơ có cấp thơ, cấp văn hoá của thơ. Thơ không đồng cấp quân bình với các văn hoá người mà nó ở cấp độ văn hoá cao nhất, siêu việt nhất mà chúng ta có thể hình dung được. Người xưa nói đến hai từ “Cõi thơ” - Cõi thơ ngang cõi niết bàn người ơi! Không phải chúng ta thổi phồng để cao siêu hoá thơ nhưng thật khó hình dung về sự tầm thường hoá nào đó đối với nó.

Trong khi chúng ta muốn thơ đại chúng hoá để có thị trường kinh tế giúp thơ tồn tại thì cái mâu thuẫn thơ càng thơ thị trường thơ càng hẹp là không thể cưỡng lại. Cái lối sống “tử vì đạo” có vẻ đã xa xưa và lỗi thời lắm rồi lại buộc các nhà thơ chúng ta vào cuộc thể nghiệm mới: Các nhà thơ tiếp tục “uống nước lã” để làm thơ. Ở thời kinh tế thị trường tồn tại một thứ lao động rất kỳ quái là sản phẩm của thứ lao động ấy chỉ làm ra để cho không, để biếu tặng. Có thứ lao động nào kỳ quái hơn lao động của các nhà thơ? Vinh quang ở đấy và bi kịch cũng là ở đấy. Song, đấy cũng là một lý do để người yêu thơ phấp phỏng nỗi lo về sự tồn tại của thơ trong tương lai? Ở đây sẽ xuất hiện một quy luật mới: Không phải còn nhà thơ thì còn bạn đọc mà ngược lại, còn bạn đọc sẽ còn nhà thơ, Muốn “cứu” thơ (nếu có thể nói như vậy) thì trước hết phải “cứu” lấy khả năng cảm thụ thơ, tình yêu thơ, cái tâm thơ và cái chỉ hướng thơ ở trong bạn đọc. Nếu thơ của ngày hôm nay không níu giữ được tình yêu thơ còn sót lại trong bạn đọc thì khó có hy vọng về sự mê thơ, say thơ của bạn đọc ở các thế hệ nối tiếp. Có một dấu hiệu báo động chưa chính xác lắm nhưng đã vang lên trong các truờng học là học sinh các cấp phổ thông đang chán văn, chán thơ, chán cái môn học nặng nề đầy lo âu trước các câu đố hóc hiểm không mấy dính dáng đến bản chất văn chương của các cuộc thi cử. Làm cho thế hệ tương lai chán văn thơ không phải là lỗi riêng của ngành giáo dục nhưng ngành giáo dục có trách nhiệm “Ông chủ” trong việc tháo gỡ vấn đề. Các nhà thơ đã lên tiếng, cần lên tiếng, coi việc chán văn thơ của học sinh là nỗi lo lắng nghiêm trang không chỉ của văn học mà của tâm hồn các thế hệ trẻ.

Thơ không bán được. Một tập thơ hay không bán nổi 1000 cuốn, thậm chí không bán được 500 cuốn.Tôi nói thơ hay là không nói chủ quan. Nhà xuất bản Kim Đồng đã tuyển chọn khắt khe các bài thơ hay nhất của các tác giả lừng danh nhất, nổi tiếng nhất của nước ta mà thơ cũng không bán hết. Bán để chịu lỗ, bán với giá tiền rẻ hơn một bao thuốc vi-na một tập thơ. Nhìn tên tuổi các tác giả, nhìn giá tiền, nhìn sự ế sách cũng thật đau lòng: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Tản Đà, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Cao Bá Quát, Tú Xương, Tản Đà, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Bính...

Rõ ràng là người ta không mua thơ không phải do không có tiền, bởi giá tập thơ chỉ 5 ngàn bạc, cũng không phải do thơ không hay bởi thơ đấy đã là tinh hoa của nền thơ dân tộc.Dấu hỏi “vì sao?” ở đây còn to hơn chiếc mỏ neo tàu thuỷ. Ai có thể trả lời câu hỏi đó? Sự ế thơ đồng nghĩa với sự ế ẩm của các tâm hồn. Phải chăng khái niệm “tâm hồn” chỉ là một huyền du xa xỉ của thời quá khứ? Phải chăng thơ đang lạc loài và các nhà thơ đang lạc loài không chỗ đứng ở ngày hôm nay? Tôi cũng biết rằng người yêu thơ ở nước ta đang rất đông đảo, đang rất nhộn nhịp ở các câu lạc bộ phường, khối, xóm, xã... Ngày thơ Việt Nam người về tham dự vẫn đông như hội. Lại thêm nữa, hàng năm có hàng trăm hàng ngàn tập thơ được in ra. Trước những dấu hiệu nhiều người đánh giá là “rất đáng vui mừng” ấy, lẽ nào tôi còn dám “khó tính” để giữ nguyên một tâm trạng khác? Tôi không muốn thơ bị tán loạn, bị xuống cấp trong các nhận thức giản đơn bỗ bã theo chiều hướng tầm thường hoá, đại chúng hoá của số đông. Chúng ta cần bảo toàn thơ bằng chất lượng chứ không thể bảo toàn nó bằng số lượng. Không thể nhìn vào số lượng tác phẩm để đánh giá một nền thơ cũng như không thể nhìn vào số đông nhộn nhịp để đánh giá trình độ hiểu thơ, biết thơ của một dân tộc.

Trên đây là những phấp phỏng như cơn gió mang bụi bặm đường phố tạt qua tâm hồn tôi, ít nhiều gây ra ở đó những lo lắng mơ hồ có thể có lý do và không lý do. Nhưng trong suy nghĩ, trong nhận thức của tôi thì thơ bao giờ cũng là đại diện đáng tin cậy nhất ở vế thứ 2 trong câu nói của Gớt: Chính thơ là “cây đời mãi mãi xanh tươi”.

Khi toán học chạm trán với định lý bất toàn, triết học chạm trán với hố đen là lỗ thủng, khoa học đã tự nhận thức về giới hạn thì thơ mãi mãi vẫn là “Triết học hồn nhiên của sự sống”. Bản thân thơ không gặp vấn đề nan giải như các thể loại khác. Nó gặp khó khăn ở đối tượng nhận thức chứ không gặp khó khăn trong bản chất tư duy triết luận thể loại. Một mầm cây mọc lên, một quả trứng nứt vỏ thơ đồng hành với sự sống, không phải là phương tiện ngợi ca mà chính là bộ phận hữu cơ của sự sống đó. Sự sống tồn tại bằng thơ và thơ tồn tại bằng sự sống. Thơ không triết luận sự sống mà mọc lên cùng sự sống đó. Nói cách khác, khi mắt người nhìn một mầm cây thì nhìn thơ mọc lên ở mầm cây đó. Mắt anh ta chạm phải thơ cùng lúc chạm phải mầm cây. Anh ta không nói được bằng thơ nhưng thơ tràn ngập tâm hồn anh ta. Muốn hay không thì thơ vẫn là phương tiện để đồng hoá con người với sự sống. Thơ vô hình vô ảnh ràng buộc con người trong cái quan hệ thiên, địa, nhân phi ngôn ngữ. Chúng ta cần nhận thức về cái vùng thơ phi ngôn ngữ như nhận thức ý nghĩa của từ ngữ trong dạng phi ngữ nghĩa của của mệnh đề. Cần biết cái độc lập tương đối giữa thơ và các phương tiện thơ cần sử dụng để biểu hiện chính nó. Sai số giữa thơ và ngôn ngữ thơ là điều có thật. Làm cho sai số đó hẹp lại, triệt tiêu đi là tài năng của các nhà thơ. Người thơ không phải là nghề lắp ráp xác chữ, xác hình mà là cái nghề có phép thần để làm cho hồn chữ, hồn hình hoà đồng với xác mà dựng lên sự sống.

Triết học của sự sống chính là bản thân sự sống. Đó là triết học thơ. Sự sống bí ẩn thế nào, kỳ diệu thế nào thì thơ bí ẩn thế ấy, kỳ diệu thế ấy. Không có thế giới trơ hoẻn của cái đã nhận thức, đã dứt điểm cũng như không có thế giới tận cùng nơi thơ đã ngự trị bằng vẻ đẹp của nó. Thế giới mở chính là thế giới bí ẩn. Khám phá bí ẩn là nhiệm vụ của sáng tạo. Bản thân thơ cũng là một bí ẩn cần khám phá. Thái độ không đầu hàng trước các bí ẩn là bản chất hùng vĩ nhất của thái độ sống. Cái đó không riêng của khoa học. Cái đó cũng gọi là thơ. Còn cuộc sống thì còn khoa học và còn thơ. Nhưng thơ không khám phá thế giới để khuôn bó nó vào các quy tắc, quy luật của sự vận động mà chỉ chiêm nghiệm vẻ đẹp sinh thành của nó gắn kết sự kỳ lạ của thế giới trong tình yêu cuộc sống đến mức mê say và cảm động do thơ tạo ra. Thơ không tạo ra thế giới thực, cũng không tạo ra thế giới hoàn toàn ảo. Thơ tạo ra thế giới mang vẻ đẹp hướng tới của khát vọng sống. Có thể nói khát vọng còn thì thơ còn, sự sống còn thì thơ tồn tại. Nói thế, tôi tin rằng không phải là ngoa ngôn hoặc nhầm lẫn. Câu hỏi thơ tồn tại hay không tồn tại “chỉ nên đáng để ý ở chỗ vì sao ở thời đại chúng ta lại nẩy sinh ra câu hỏi đó. Và đó là một câu hỏi khác. Câu hỏi này rất nghiêm trang, nó là một báo động thơ, báo động về nền văn minh, về sự ô nhiễm môi trường văn hoá trong đời sống tinh thần của cả loài người. Thơ không thể mất nhưng nhân loại có đồng hành với cuộc sống trong cảm giác thiêng liêng và kỳ diệu của thơ hay không lại là chuyện khác.

Vinh 5/2004
T.Q
(184/06-04)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • INRASARA1. Lạm phát thơ, ra ngõ gặp nhà thơ, người người làm thơ nhà nhà làm thơ, thơ nhiều nhưng nhà thơ không có bao nhiêu… Đã thấy khắp nơi mọi người kêu như thế, từ hơn chục năm qua(1). Kêu, và bắt chước nhau kêu. Kêu, như thể một phát âm rỗng, vô nghĩa, hết cả sức nặng. Từ đó tạo thành thói quen kêu, nhàm và nhảm.

  • TÔ NHUẬN VỸ(Nhân hội thảo con đường văn học Việt Nam vào Hoa Kỳ tổ chức tại Hà Nội từ 31/5 đến 3/6)

  • KHÁNH PHƯƠNGMột năm, trong tiến trình văn học, thường không có ý nghĩa đặc biệt nếu không nén chặt các sự kiện nghề nghiệp quan trọng, mà không phải năm nào cũng có được duyên may đó.

  • (Tường thuật từ Hội thảo “Thơ đến từ đâu” ở Tạp chí Sông Hương)

  • LÊ XUÂN VIỆTHơn bảy năm qua, kể từ ngày Bình Trị Thiên hợp nhất tỉnh. Trong thời gian ấy, hiện thực cách mạng đã diễn ra trên mảnh đất anh hùng này thật sôi động, lớn lao. Văn xuôi Bình Trị Thiên đã góp phần cùng với các loại hình văn học nghệ thuật khác phản ánh hiện thực đó, tạo nên món ăn tinh thần quý giá động viên, cổ vũ nhân dân xây dựng cuộc sống mới. Để thấy rõ hơn diện mạo của văn xuôi, chúng ta thử nhìn lại sự phát triển của nó.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGCó một người bạn cùng nghề, cùng lứa, một nhà văn viết truyện ngắn mà tên tuổi không xa lạ lắm đối với bạn đọc, có lần đã tâm sự với tôi như thế nầy: “Tôi không bao giờ muốn viết bút ký. Dẫu có những cái nó là thực đến một trăm phần trăm, nó là ký rõ ràng, thì tôi vẫn cứ uốn nắn nó lại đôi chút để thành truyện ngắn”.

  • NGUYỄN THỊ KIM TIẾNTiểu thuyết lịch sử là một loại hình tiểu thuyết viết về đề tài lịch sử. Khác với các xu hướng tiểu thuyết khác ở đối tượng và cách tiếp cận hiện thực đời sống, tiểu thuyết lịch sử đã đưa đến một cách lý giải con người dựa trên cơ sở vừa lấy lịch sử làm “đinh treo” vừa tận dụng kết hợp những đặc trưng thuộc về thể loại tiểu thuyết, mang lại một kiểu tư duy văn học trong tiểu thuyết lịch sử nói riêng nhiều phương diện mới mẻ.

  • HOÀNG THỊ QUỲNH ANHTrương Đăng Dung dạo vườn thơ khi mới ngoài 20 tuổi, lúc đang còn là một sinh viên du học ở nước ngoài. Năm 1978, ông đã trình làng bài thơ “Âm hưởng mùa hè” trên báo Văn nghệ. Nhưng rồi công việc nghiên cứu và dịch thuật văn học khiến ông neo thơ vào lòng, ấp ủ bấy lâu nay.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ“Cốt truyện” là thuật ngữ quen dùng trong nghiên cứu văn học Việt Nam, chỉ một đặc điểm của tác phẩm tự sự có từ lâu đời, được dịch từ tiếng Nga siuzhet, tiếng Anh plot, tiếng Pháp sujet.

  • ĐỖ LAI THÚY1. Ở ta không biết tự bao giờ, trong số đông, đã hình thành một hệ giá trị: lý luận là nhất, nghiên cứu thứ hai, còn phê bình thì đứng đội bảng. Bởi thế mở nghiệp bằng phê bình và dựng nghiệp bằng nghiên cứu là đại lộ quen thuộc của nhiều người.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNThể loại tiểu thuyết đã ra đời và có lịch sử vận động khá lâu dài. Ít nhất, ở châu Âu, thể loại này đã có từ gần năm thế kỷ.

  • CHƯƠNG THÂUNói về sự nghiệp đấu tranh bảo vệ tổ quốc, chúng ta dễ dàng ghi nhận những thành tích của giáo dân, đặc biệt của các nhân sĩ trí thức, anh hùng liệt sĩ “kính Chúa yêu nước”.

  • Viện sĩ A-lếch-xan-đơ Đa-ni-lô-vích A- lếch- xan- đrốp là một nhà toán học lỗi lạc, đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ khi ông mới 24 tuổi, sau đó nhiều năm giữ cương vị hiệu trưởng trường Đại học tổng hợp Lê- nin- grát. Ngoài toán học ra, ông còn quan tâm tới nhiều lãnh vực khoa học khác như đạo đức học, triết học, khoa học... Viện sĩ ưa thích làm thơ, và điều đặc biệt thú vị là ở tuổi 70, ông đã leo lên tới một trong những đỉnh núi của dải Thiên Sơn hùng vĩ... Sau đây là cuộc trao đổi giữa viện sĩ và phóng viên tờ “Nước Nga Xô viết”

  • LGT: Sau hơn chục năm nghiên cứu kết hợp với nhiều chuyến điền dã, ông Lê Quang Thái đã ghi chép lại Vè thất thủ Kinh đô (kể cả dị bản) trên cơ sở chú giải tỉ mỉ và cặn kẽ nhằm mở ra cho độc giả một cái nhìn bao quát về bối cảnh Kinh đô Huế ngày thất thủ và những năm tháng kế tục.Trân trọng tâm huyết và công lao của tác giả, Sông Hương xin giới thiệu tới bạn đọc một chương khá quan trọng trong công trình kể trên của ông Lê Quang Thái, hiện công tác tại Trung tâm Liễu quán Huế.S.H

  • LƯU KHÁNH THƠ“Hàng năm cứ vào cuối thu lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại náo nức những kỷ niệm mơn man của buổi tựu trường... Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO(Nhân đọc một bài viết của Lê Quý Kỳ)

  • HÀ VĂN LƯỠNG 1. Trên hành trình của văn học Việt Nam hiện đại mà nói rộng ra là văn học Việt Nam thế kỉ XX, bên cạnh việc phát huy và giữ gìn bản sắc và những truyền thống văn hóa dân tộc thì nhu cầu giao lưu, tiếp thu văn học nước ngoài, đặc biệt là văn học phương Tây để góp phần hiện đại hóa nền văn học dân tộc trở thành một nhu cầu cần thiết.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHVấn đề bản sắc địa phương trên tạp chí văn nghệ tỉnh nhà chúng ta đã có dịp bàn bạc, trao đổi nhưng chưa ngã ngũ. Có lẽ trong trường lực báo chí, tờ văn nghệ vẫn là chỗ nhạy cảm nhất về phương diện văn hóa. Hẳn nhiên, trong địa hạt ấy, tờ văn nghệ cũng là nơi khả kiến nhất về phương diện nghệ thuật. Câu hỏi đặt ra ở đây là bản sắc địa phương của tờ báo được xét theo phương diện nào? văn hóa hay nghệ thuật?

  • THANH THẢOCâu trả lời có vẻ đơn giản: văn học là... văn học. Nhưng trả lời như thế chính là đặt tiếp một câu hỏi, và lại một câu hỏi nữa, mà câu trả lời đâu như còn thấp thoáng ở phía trước.

  • TRẦN THỊ THANHĐặng Huy Trứ là một trong những gương mặt nổi trội của các nhà trí thức lớn Việt Nam ở thế kỉ XIX. Tài năng và trí tuệ tuyệt vời đã hội tụ trong con người ông.