Thơ âm thầm lấp lóe từng câu

10:12 02/03/2010
THANH THẢOThơ như những ngọn đèn thuyền câu mực trong biển đêm. Lấp lóe, âm thầm, kiên nhẫn, vô định.

Nhà thơ Thanh Thảo - Ảnh: laodong.com.vn

Lê Xuân Đố, xuất thân ở một vùng biển Quảng Bình, trước khi làm thơ đã từng là một “tiểu ngư dân”, nên anh hiểu cái khó của người câu mực cũng giống như cái khó của người làm thơ. Nào biết thời khắc mà ta câu được con mực hay viết được bài thơ. Có một phần ngẫu nhiên, may rủi trong công việc này, dù người “câu” có tài giỏi và nhiều kinh nghiệm tới đâu. CHẠM MẶT không phải tập thơ đầu tay của Lê Xuân Đố, nhưng ở người làm thơ này, dù viết tới bài thơ một nghìn vẫn có cảm giác run run của người viết bài thơ đầu. Dù cách nói đã tự tin, cách tung chữ nghĩa đã bặm trợn hơn, thì vẫn có chút gì rụt rè chút gì thành kính, kể cả chút gì hoang mang nữa, khi viết những dòng thơ. Bởi viết bài thơ không phải chế tác một vật phẩm, càng làm nhiều càng “cứng tay”, càng “dạn tay”, thậm chí “quen tay”. Thơ buộc ta mỗi khi chạm vào nó đều như những va chạm đầu tiên, buộc ta phải “quên mình” để khi viết bài thơ thứ một nghìn cũng giống như viết bài thơ đầu tiên.

            “Thơ âm thầm lấp lóe từng câu
            Như người bẻ ghi ga lẻ đêm thâu
            ngọn đèn thức dặm trường hiu hắt” (EM MƠ)

Tôi không thuộc loại tin  vào sức sống của thơ “quảng trường”, của thơ trình bày trước đám đông hàng vạn người và được vỗ tay hồi lâu như sấm dậy. Tôi chậm lụt, nhiều khi đọc một đoạn thơ, một câu thơ cũng phải để từ từ cho nó ngấm vào mình, xem mình có “bắt” được nó không, mình có cảm được nó không. Chứ nếu vừa nghe ai đó đọc xong bài thơ, tôi vội vỗ tay ngay, thì chắc chắn tôi cũng chẳng biết bài thơ ấy thế nào, có vỗ là vỗ “theo phong trào” vậy thôi. Nếu Văn Cao từng viết: “Đôi khi người ta bị giết-bằng những bó hoa”, thì những tràng pháo tay kia cũng nguy hiểm không kém gì những bó hoa, có thể đưa một nhà thơ đang được “bơm căng” bị “xì hơi” trong phút chốc.

            “Bí ẩn chi tìm kiếm cả đời
            Bao trang viết lẫn vào mây trắng” (TRÊN BIỂN QUÊ HƯƠNG)



            “Thu muộn gầy hai tay trắng” (LẠC MÙA)

Cảm giác của người đi câu khi thuyền đầy những con mực lại bị gió bão lật chìm sạch sành sanh, cảm giác của ông già trong “Ngư ông và biển cả” của Hemingway, khi con cá kiếm khổng lồ ông câu được cuối cùng chỉ còn bộ xương. Cảm giác của người làm thơ về thơ mình, đôi khi cũng vậy. Chẳng phải bi quan chi đâu, thực sự thì cái sức sống của một bài thơ khá mù mờ, nhiều khi may rủi, nhiều khi không thực chất. Vì vậy, Nguyễn Du cũng chỉ dám tính từng trống canh cho thơ mình. “Mua vui”, thì đã đành, bây giờ người ta gọi là “chức năng giải trí”. May mà thơ Nguyễn Du còn sống tới bây giờ, nó sẽ sống tới bao giờ nữa, thì cứ từ từ sẽ biết. Thế giới bây giờ ghê quá, Thơ như những người được hương hỏa một số đất đai, nhưng gặp thời đô thị hóa, cắm mốc mở đường xây nhà tùm lum, đất Thơ dần bị lấn chiếm khá thô bạo, có muốn kêu cũng chẳng biết kêu ai, nên nhà thơ bây giờ hơi bị khép nép, nhiều lúc hoảng hốt nhìn quanh thấy những khối bê tông cốt thép đang lao tới, lấn tới khu vườn cũ của mình mà không biết chạy đi đâu. Thôi thì trong khi chờ làn sóng đô thị hóa cuốn phăng mảnh vườn chữ nghĩa vần vèo nhạt nhẽo của mình, nhà thơ chỉ còn biết dựa vào nhưng giấc mơ, cậy trông vào những con chữ. Không có tham vọng thay đổi hay cải tạo thế giới, nhưng cũng ù lì bảo thủ co cưỡng không muốn thế giới cải tạo mình, nhà thơ hiện đại tìm đủ cách để “thâm canh” trên “mảnh ruộng phần trăm” của mình. Lắm cày rầy ma, cày qua cuốc lại trồng trồng cấy cấy, đến mùa lại thu hoạch, nhưng sản phẩm bị rớt giá còn thê thảm hơn cả trứng gà nội địa bị trứng Trung Quốc đàn áp, nhà thơ chỉ còn tin vào sự may rủi. “May ra thì...”, nhưng dù sao vẫn phải cày cuốc gieo cấy, và khi thu hoạch được bài thơ, cũng lại sung sướng hân hoan như thuở nào thơ còn bán được còn có giá. Ây, thế giới phát triển nhờ sự canh tân, nhưng đôi khi, thế giới sống được lại nhờ những sự bảo thủ kiểu như vậy, nhờ lối khăng khăng như vậy, nhờ một niềm tin gần như một hằng số như vậy.

            “Câu thơ anh, em trót cưu mang
            Người đời bỡn cợt
            Đừng em” (Em MƠ)

Bức họa chân dung nhà thơ Lê Xuân Đố - Ảnh: evan.vnexpress.net

Lê Xuân Đố không phải không biết sống ở thời hiện đại này, không phải mù mờ về chuyện tính toan, thậm chí anh còn biết làm thế nào để “nâng cao chất lượng cuộc sống” như bây giờ người ta vẫn hô hào. Nhưng mỗi khi quay về với thơ, mỗi khi “chạm mặt” Thơ, anh lại như quên hết “lời em dặn dò”, anh lại “vũ như cẩn”, trở về ngây ngô, u ơ, vớ vẩn, tự sướng với những bài thơ của mình, mặc xác tất cả. Và cũng chẳng cần biết thơ ấy có bán được không, có sống được không, có được dịch ra tiếng nước ngoài nào không, có được giải thưởng huy chương này nọ không... Bất kể, Lê Xuân Đố chỉ tự thấy mình sống mỗi khi làm thơ, mình được hít thở không khí trong lành nhất, như không khí nơi bãi biển quê nhà, mỗi khi mình viết được bài thơ. Nghĩa là thơ mang lại một thứ “chất lượng sống" tối thượng, thơ “cung ứng dưỡng khí” như tên một ban nhạc rock nổi tiếng của Tây từng sang ta biểu diễn. Thơ kỳ thế đấy. Và cũng đừng mong nó có thể mang lại dưỡng khí cho hàng triệu người. Nhiều khi, dưỡng khí ấy chỉ đến với một người, nhưng là người đang thiếu dưỡng khí, người đang ngợp thở.

Quảng Ngãi 27-7-1999
T.T
(132/02-2000)



 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHAN ĐÌNH DŨNG

    1. Có thể tìm hiểu những đặc trưng nghệ thuật của thơ Thiền Việt Nam thế kỉ XI - thế kỉ XIV qua một số phương diện tiêu biểu như ngôn ngữ, thế giới nghệ thuật hay hình tượng (con người, thiên nhiên, không/thời gian nghệ thuật), thể thơ, kết cấu, cách miêu tả thể hiện, giọng điệu… Đây là cách nghiên cứu “diện”.

  • ĐOÀN ÁNH DƯƠNG

    Tự Lực văn đoàn đã khởi sự hoạt động báo chí và văn chương của mình trong một thời điểm chứa đầy cơ hội và thách thức.

  • NGUYỄN MẠNH TIẾN    

    Sự tương hợp của những môtip truyện họ Hồng Bàng hay con rồng cháu tiên [viết tắt: rồng tiên] được chuẩn hóa như huyền thoại quốc gia bắt đầu từ trong truyền thống Ngoại kỷ của Toàn thư người Việt với vũ trụ luận Mường, Thái là một chủ đề thú vị.

  • Kỷ niệm 88 năm báo Phong hóa (7/1932 - 7/2020) và Tự Lực văn đoàn

    PHẠM PHÚ PHONG

    Nhất Linh là một kiểu mẫu hoàn hảo của trí thức Việt Nam, có thêm một cái gì rắn rỏi và thẳng thắn, rất hiếm có.                                                                                   (Sainteny)

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG     

            (Gởi Hoàng Thị Hạnh)

  • MAURICE BLANCHOT    

    Có lẽ Kafka muốn tiêu hủy tác phẩm của mình, vì chúng dường như với nhà văn tất sẽ làm tăng lên sự hiểu nhầm chung.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN

    Trong tình hình phát triển hiện nay của lý luận (thuộc mọi lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn) người làm công tác lý luận và phê bình văn học không thể không xem xét và xác định lại những khái niệm lý luận văn học, kể cả những khái niệm vẫn được xem là "cơ bản", "trung tâm", "cốt yếu"...

  • TRẦN NGỌC HIẾU    

    Vị trí tiên phong của Nguyễn Minh Châu trong tiến trình đổi mới văn học Việt Nam sau 1975 đã được thừa nhận ở nhiều khía cạnh như quan niệm về con người, nghệ thuật xây dựng nhân vật, tổ chức trần thuật...

  • THANH NGÂN  

    Kết cấu vừa là toàn bộ tổ chức nghệ thuật sinh động của tác phẩm, vừa là phương tiện khái quát nghệ thuật. Cho nên, nó đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc khái quát và thể hiện tư tưởng - cảm xúc của tác phẩm văn học nói chung. Khi đánh giá kết cấu tác phẩm không phải chỉ xét nó dưới sự hài hòa, cân đối của nội dung.

  • MAI VĂN HOAN  

    Số người biết về Nguyễn Hành hiện nay rất ít. Tôi có hỏi một vài người quan tâm đến văn chương, các vị ấy đều không hề biết Nguyễn Hành là ai.

  • PAUL DE MAN  

    Phát hiện khá muộn màng về tác phẩm của Georg Lukács ở phương Tây và gần đây nhất, ở đất nước này, đã có xu hướng cô đặc lại quan niệm về sự chia rẽ rất sâu sắc giữa Lukács thời kỳ đầu phi Mác-xít và Lukács thời kỳ sau theo Mác-xít.

  • ĐOÀN ÁNH DƯƠNG

    1. Không đơn thuần là “mô phỏng”/ “phản ánh”, một kiểu “chủ nghĩa đề tài” quen thuộc trong văn học về chiến tranh và cách mạng, văn học Việt Nam đương đại đã trực tiếp tham dự vào quá trình kiến tạo diễn ngôn dân tộc chủ nghĩa.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ

    Từ khi có bài báo ngắn Dân là gốc hay lấy dân làm gốc của Văn Như Cương (Văn nghệ số 48-1988), một số bạn đã viết bài bàn lại, nói chung cho rằng nói "Lấy dân làm gốc" vẫn không mất ý nghĩa tốt đẹp của nó. Tôi cũng tán thành với các ý kiến đó, mặc dầu tôi vẫn cho rằng dịch "dân là gốc" như anh Cương bàn cũng đúng.

  • NGUYỄN VĂN HÙNG    

    Chuột là loài vật luôn hiện hữu trong cuộc sống con người, bao gồm cả đời sống vật chất lẫn đời sống văn hóa tinh thần.

  • YẾN THANH  

    Đối với mỗi người Việt Nam, chuột là một “người hàng xóm” tự nhiên quen thuộc. Thật ra, trong lịch sử của loài người, có lẽ không loài động vật nào gắn bó tự nhiên với chúng ta hơn loài chuột.

  • NGỌC TRAI

    Văn học ta trong những năm gần đây đang có dấu hiệu chuyển hướng và đổi mới một cách đa dạng, phong phú.

  • DƯƠNG BÍCH HÀ  

    Văn hóa dân gian, trong đó có âm nhạc, là một bộ phận nghệ thuật quan trọng trong nền văn hóa đa dân tộc của Việt Nam. Nó phản ánh sâu sắc những tâm tư, nguyện vọng, tình cảm của con người. Nó gắn liền với cuộc sống sinh hoạt của nhân dân và phục vụ nhân dân. Song song với cuộc sống của con người, nó đã tồn tại qua mấy nghìn năm lịch sử đến nay.